Trong sâu thẳm trái tim người Việt Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, dù già hay trẻ, dù gái hay trai, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, đều kính cẩn khâm phục chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ uyên bác có tầm nhìn xa muôn dặm, có trái tim lớn yêu nước, thương dân vô bờ bến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc. Người đa làm rạng rỡ non sông, đất nước ta và để lại cho Đảng ta, Nhân dân và toàn thể dân tộc những di sản vô giá, trong đó có Di Chúc.
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ của một nhà tư tưởng lỗi lạc, bởi trong đó thể hiện tâm huyết của một con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”; là sự hội tụ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, hòa quyện, chắt lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại; đã đi vào lịch sử và trở thành một tài sản vô giá của dân tộc ta; là tầm cao của một con người đã dành cả cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam, vì hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới.
Thực hiện Di chúc của Người, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật thực hiện “phê bình và tự phê bình” nghiêm túc chỉ ra những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam, đó là “lấy dân làm gốc”, “tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, “đoàn kết toàn dân” phát huy sức mạnh tổn hợp để bảo vệ, xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) thực hiện công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu, thì sự khủng hoảng và đi đến sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô đã có những tác động về tư tưởng, tình cảm đối với cán bộ đảng viên và Nhân dân ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó “các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận chính trị, tư tưởng nhằm thực hiện diễn biến hòa bình”(Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa VIII).
Thêm một lần nữa dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏ rõ bản lĩnh của một đảng cầm quyền, huy động tổng hợp sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển và đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã tổng kết kinh nghiệm 10 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước; quyết định chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với những thời cơ và thách thức to lớn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết TW 4 khoá XII tiếp tục khẳng định đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách, xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, những nguy cơ lớn mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta, đồng thời cũng chỉ rõ tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
Trần Thị Du – Khoa LL Cơ sở
Tin khác