• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 - 19/12/2023) “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - 77 năm vẫn vẹn nguyên giá trị
Ngày xuất bản: 15/12/2023 8:33:00 SA
Lượt đọc: 2678

 

Cách đây 77 năm, để bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Lời kêu gọi thiêng liêng của Người như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Hơn bảy thập kỷ đã qua nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng đó vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của lời hịch cho đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, đất nước ta lúc bấy giờ vẫn đứng trước tình thế thù trong, giặc ngoài hết sức cam go. Ở phía Bắc là hơn 20 vạn quân Tưởng, cùng sự hỗ trợ của bọn Việt Quốc, Việt Cách tiến vào nước ta với âm mưu “Diệt Cộng, cầm Hồ”. Ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là muốn cướp nước ta một lần nữa... Lúc này ở trong nước, nạn đói đã cướp đi sinh mệnh của hơn 2 triệu đồng bào ta, cùng với đó là 95% dân số mù chữ. Vận mệnh cả dân tộc đang đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Thường vụ Trung ương Đảng đã đưa ra nhiều kế sách nhằm hòa hoãn với Tưởng và sau đó là Pháp để xây dựng và củng cố lực lượng nhưng với âm mưu “cướp nước ta một lần nữa”, cuối tháng 11/1946, quân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Ngày 18/12/1946, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội cho chúng. Quân Pháp đe dọa nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20/12/1946 chúng sẽ hành động. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, trong hai ngày 18 và 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Để hiệu triệu toàn dân đứng lên chống Pháp và để có đường lối chung chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Vào 20 giờ 03 phút ngày 19/12/1946, đèn điện Hà Nội phụt tắt (công nhân nhà máy đèn Bờ Hồ phá máy), đại bác từ pháo đài Láng bắn những phát đầu tiên, đánh dấu mở đầu thời kỳ kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc. Sáng sớm ngày 20/12/1946, qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi khắp cả nước.

Toàn văn Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vẻn vẹn 197 chữ nhưng có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng, bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; là mệnh lệnh tiến công cách mạng, tạo khí thế để nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Ra đời trong thời khắc cam go của lịch sử, hịch cứu nước của Hồ Chí Minh đã chạm tới điều sâu thẳm nhất trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, đó là lòng yêu nước và khát vọng tự do, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Sự kiện Bác Hồ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 đã thể hiện nghệ thuật khởi đầu chiến tranh của Hồ Chí Minh. Người luôn cho rằng, chiến tranh chỉ nên bắt đầu khi không thể tiếp tục nhân nhượng được nữa và khi công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành. Nếu chiến tranh nhất thiết phải xảy ra thì nên chủ động bắt đầu nó để tránh rơi vào thế bị động, dẫn đến hoang mang trong dân chúng. Và thực sự, khởi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra đúng như vậy. Trong hoàn cảnh bị dồn vào thế phải làm nô lệ, cũng như công tác chuẩn bị cũng cơ bản hoàn thành, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến bị động thành chủ động. Sự chủ động, quyết đoán đã mang lại sự thuận lợi về cả tâm lý cũng như hành động tác chiến, đã làm tiêu tan mưu đồ đánh úp của quân Pháp, làm cho quân Pháp từ thế chủ động thành bị động, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng. Sự quả cảm, bình tĩnh, mưu lược trước âm mưu thâm độc và sức mạnh của kẻ thù đã thể hiện bản lĩnh của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trải qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nước ta vẫn là nước đang phát triển, khoảng cách tụt hậu về kinh tế, về trình độ khoa học công nghệ vẫn còn xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, tinh thần “không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” cần được hun đúc và phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong công cuộc chống nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ, … Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã để lại nhiều bài học quý báu cho công cuộc đổi mới của Nhân dân ta, nhất là công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới hiện nay.

Trước hết, đó là những quan điểm đúng đắn về mô hình chiến tranh nhân dân trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có giá trị vận dụng sâu sắc. Quan điểm “toàn dân kháng chiến” giúp Đảng ta chủ động phát huy mọi lực lượng trong dân để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm “toàn diện kháng chiến” giúp Đảng ta quan tâm phát triển mọi mặt của đất nước. Quan điểm “trường kỳ kháng chiến” giúp chúng ta không nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm “tự lực cánh sinh” là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối chủ động phát huy nội lực, kết hợp chặt chẽ nội lực và ngoại lực trên tinh thần lấy nội lực làm nền tảng để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn chứa đựng những chân lý của cuộc sống, những quy luật của cách mạng nên luôn có sức sống trường tồn như thế.

Thứ hai, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gợi mở những giải pháp quý báu để giải quyết những khó khăn của đất nước. Cùng với xu thế phát triển của nhân loại thì đất nước ta cũng đã có nhiều biến đổi tích cực, tuy nhiên, trong sự phát triển của đất nước vẫn tồn tại không ít khó khăn khi sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng mạnh mẽ và tinh vi, khi chủ quyền dân tộc ở biển Đông vẫn bị đe dọa và không thể giải quyết một sớm một chiều, khi nội bộ đất nước chứa đựng nhiều tệ nạn nghiêm trọng... Để hóa giải những khó khăn đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã gợi mở cho Đảng những giải pháp hết sức quan trọng, đó là: phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết và sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, điều đã được kiểm nghiệm trong hằng ngàn năm lịch sử mà thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là một ví dụ điển hình.

Thứ ba, lời thề thiêng liêng “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh luôn có giá trị cảnh báo vì sự nô dịch, xâm lược ngày nay đã mang những sắc thái mới. Đó là sự nô dịch văn hóa dưới chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “hội nhập toàn diện, triệt để”. Đó là sự xâm lấn kinh tế với phương châm “thua trên chiến trường, thắng trên thị trường”, “thua trong chiến tranh, thắng trong hòa bình”, “thỏa thuận về biên giới cứng, mở rộng về biên giới mềm”… Vì vậy, trong hợp tác kinh tế, ta luôn phải hết sức thận trọng tránh sự mất độc lập về kinh tế dẫn đến mất độc lập về chính trị, trong giao lưu văn hóa tránh sự vong bản bởi mất văn hóa là mất tất cả. Văn kiện Đại hội Đảng  toàn quốc lần thứ XIII đã xác định rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”[1] như là lời khẳng định lại lời thề thiêng liêng trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ tư, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh là bài học quý về vai trò lãnh đạo của Đảng. Khi vận mệnh dân tộc “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân vì nhân dân tìm thấy ở Người và những cộng sự của Người sự hội tụ những phẩm chất cao cả “nhân, trí, dũng, liêm, trung”. Ngày nay, ngọn lửa yêu nước vẫn âm ỉ trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng có thổi bùng được ngọn lửa ấy lên hay không còn phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của Đảng. Nếu Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, biết phát huy thời cơ, dám làm thì Đảng sẽ đưa dân tộc ta sánh vai với những cường quốc năm châu như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dù đã trải qua 77 năm nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử, trở thành dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trước những thăng trầm của thời gian, giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc./.

                          Ths. Đồng Thị Thùy Trang

                                     Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng