• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ VĂN LƯƠNG TRÊN CƯƠNG VỊ THỨ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Ngày xuất bản: 30/03/2022 9:35:00 SA
Lượt đọc: 5548

Trong lịch sử vẻ vang 77 năm xây dựng và phát triển (1945-2022), Bộ Nội vụ vinh dự và tự hào đã có những giai đoạn được lãnh đạo, quản lý bởi các nhà cách mạng tiền bối, tiêu biểu của Đảng và Nhà nước ta; một trong số các nhà lãnh đạo tiền bối, tiêu biểu, có nhiều cống hiến, đóng góp to lớn là đồng chí Lê Văn Lương (tên khai sinh là Nguyễn Công Miều, sinh ngày 28/3/1912), sinh trưởng trong một gia đình nho học tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, quê hương và gia đình, ngay từ khi còn trẻ tuổi, đồng chí Lê Văn Lương đã giác ngộ cách mạng và tham gia các hoạt động yêu nước. Đồng chí được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiều trọng trách: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương, Giám đốc Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội... Từ năm 1954 đến năm 1956, đồng chí được Đảng và Nhà nước phân công giữ trọng trách Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Lãnh đạo Bộ Nội vụ khi đó có Cụ Phan Kế Toại giữ trọng trách Bộ trưởng; các Thứ trưởng là đồng chí Lê Văn Lương và đồng chí Phạm Văn Bạch (1).

Ngày 02/01/1968, đồng chí Lê Văn Lương (thứ 2 từ phải sang) tới thăm một đơn vị pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa - Ảnh tư liệu của TTXVN

Với sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của quê hương (trong nhân dân vẫn có câu truyền tụng “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến” để nói về Hưng Yên - vùng đất địa linh, nhân kiệt), truyền thống gia đình và tinh thần yêu nước, đạo đức cách mạng trong sáng; những kinh nghiệm quý báu trong quá trình hoạt động cách mạng trước đó, trên cương vị Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương kiêm Thứ trưởng Bộ Nội vụ, đồng chí Lê Văn Lương đã có những đóng góp to lớn, cùng tập thể lãnh đạo và cán bộ, công chức Bộ Nội vụ tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành và tổ chức thi hành nhiều chủ trương, chính sách góp phần xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước vững mạnh để vừa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam để thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của Bộ Nội vụ trong giai đoạn đồng chí Lê Văn Lương giữ trọng trách Thứ trưởng được thể hiện trên các lĩnh vực trọng tâm là công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác dân sự và các nhiệm vụ được bổ sung trong quá trình củng cố, kiện toàn tổ chức của Chính phủ và bộ máy quản lý nhà nước. 

Thực hiện xây dựng bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương, chuyển nhiệm vụ từ đấu tranh giải phóng sang kiến thiết đất nước trong khi chưa có kinh nghiệm, thiếu cán bộ; nhiệm vụ mới về quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội là những nhiệm vụ rất quan trọng, song cũng hết sức nặng nề đặt ra cho Bộ Nội vụ trong giai đoạn đó. Song, với đạo đức, uy tín và kinh nghiệm kỹ trị của Cụ Phan Kế Toại - Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ năm 1947 đến năm 1963; kiến thức và sự am hiểu sâu sắc pháp luật quốc gia và quốc tế của Tiến sĩ luật học Phạm Văn Bạch - Thứ trưởng Bộ Nội vụ từ tháng 01/1955 đến tháng 6/1957; và kinh nghiệm thực tiễn công tác tổ chức cán bộ và công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng của đồng chí Lê Văn Lương - Thứ trưởng Bộ Nội vụ từ năm 1954 đến năm 1956, Bộ Nội vụ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. 

Qua các tài liệu lưu trữ chính thức và các công trình nghiên cứu về lịch sử Chính phủ, lịch sử Bộ Nội vụ, có thể khái quát những cống hiến, đóng góp của đồng chí Lê Văn Lương trên cương vị Thứ trưởng Bộ Nội vụ như sau:

Thứ nhất, tham gia chỉ đạo tham mưu xây dựng bộ máy và quản lý biên chế hành chính nhà nước. Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, thực hiện nhiệm vụ xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, trong khi về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức khi đó còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm; trong khi nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy hành chính nhà nước để quản lý các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa; đối nội, đối ngoại... đòi hỏi Bộ Nội vụ phải có những nỗ lực, cố gắng rất lớn. Để thực hiện nhiệm vụ, đồng chí Lê Văn Lương đã cùng tập thể lãnh đạo Bộ và cán bộ, công chức Bộ Nội vụ tham mưu cho Hội đồng Chính phủ củng cố, bổ sung các bộ và xây dựng các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ để kịp thời quản lý đất nước sau khi giải phóng miền Bắc (năm 1954). Trong đó, có nhiệm vụ rất quan trọng là tham mưu để Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội quyết định tổ chức bộ máy Chính phủ nhiệm kỳ mới. 

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc bước vào công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với nhiệm vụ trong bối cảnh mới của cách mạng Việt Nam, Chính phủ đã cải tổ và bổ sung thêm một số bộ để phát triển và xây dựng đất nước. Chủ trương của Chính phủ mở rộng là Chính phủ dự bị cho Tổng tuyển cử toàn quốc. Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I ngày 20/9/1955, Chính phủ mở rộng bắt đầu làm việc từ ngày 20/9/1955 và tiếp tục được bổ sung Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I, ngày 27/5/1959. Hoạt động chủ yếu của Chính phủ giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1957 là khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước để chỉ đạo thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đó, đồng chí Lê Văn Lương cùng tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ đã tham mưu, giúp Chính phủ kiện toàn một số cơ quan trước đó và lập mới một số cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, như: Nha liên lạc Chính phủ, Ban Thể dục thể thao Trung ương, Cục Vật tư, Ủy ban Kế hoạch, Ban Thanh tra Trung ương, Ban Dân tộc...; và một số tổ chức làm nhiệm vụ chính trị, xã hội, sự nghiệp như: Việt Nam Thông tấn xã, Đài Phát thanh, Ban Quan hệ Bắc - Nam, Ban Giao thương quốc tế, Cục Chuyên gia, Nha Khí tượng thủy văn, Trường Đại học Nhân dân... 

Một nhiệm vụ cũng rất quan trọng và nặng nề đối với Bộ Nội vụ trong giai đoạn này là phải kiểm soát, quản lý số lượng biên chế cán bộ, nhân viên tăng lên rất nhiều. Từ đầu năm 1956, cùng với việc nghiên cứu củng cố, kiện toàn các cơ quan thuộc và trực thuộc Hội đồng Chính phủ như nêu trên, Bộ Nội vụ đã tập trung nghiên cứu, tham mưu giải pháp quản lý biên chế các cơ quan Dân - Chính - Đảng từ Trung ương đến địa phương. Bộ đã tiến hành tập hợp, theo dõi số lượng biên chế và mức tăng từng tháng, kết quả cho thấy số biên chế hành chính của năm 1955 tăng gấp đôi so với năm 1954; trong 9 tháng đầu năm 1956 bình quân mỗi tháng tăng gần 1.100 người. Số biên chế các cơ quan Dân - Chính - Đảng cả nước tính đến tháng 9/1956 là hơn 100.000 người. Nếu tính cả số gần 27.000 cán bộ tham gia cải cách ruộng đất và xây dựng các khu tự trị thì tổng số lên đến gần 135.000 người. Trước tình hình đó, Bộ Nội vụ đã có văn bản báo cáo Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ về thực trạng: “Biên chế hành chính sự nghiệp tăng nhanh vượt quá mức tỷ lệ trung bình so với dân số” (2). Và để giải quyết tình trạng này, đồng chí Lê Văn Lương cùng tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ đã tham mưu, đề xuất Chính phủ phương châm quản lý biên chế là năm 1957 không tuyển thêm người, giảm biên chế hành chính hợp lý hóa và tăng cường đúng mức biên chế sự nghiệp, điều chỉnh nơi thừa sang nơi thiếu, sửa đổi lề lối làm việc... Đồng thời, Bộ Nội vụ đã tham mưu, đề xuất 17 biện pháp quản lý biên chế như rút bớt số lượng cán bộ đoàn cải cách ruộng đất, cán bộ đi xây dựng các khu tự trị, ngành công an giảm quân số các đồn, giảm cán bộ hộ khẩu, giảm biên chế cấp khu, chuyển các đơn vị hoạt động văn hóa, kỹ thuật sang doanh nghiệp, ngăn chặn việc chiếu cố đưa người nhà của cán bộ vào làm việc trong cơ quan...

Đây là những tiền đề rất quan trọng để đến năm 1957, Bộ Nội vụ đã thực hiện quản lý bằng biện pháp lập thống kê tình hình tăng, giảm biên chế của từng cơ quan. Một số cơ quan được ấn định số lượng tăng, giảm rất cụ thể, chi tiết như Ủy ban cải cách ruộng đất giảm từ hơn 20.000 người còn 3.200 người; Ban Tôn giáo tăng thêm 15 người, Cục Chuyên gia tăng 13 người, Bộ Văn hóa tăng 20 người, Ban Quan hệ Bắc Nam tăng 200 người... Và một giải pháp hết sức quan trọng, tạo lập cơ sở cho việc quản lý tập trung, thống nhất, điều hành vĩ mô công tác quản lý biên chế là Bộ Nội vụ đã tham mưu Hội đồng Chính phủ thành lập Ủy ban điều chỉnh biên chế Trung ương làm nhiệm vụ điều chỉnh kiểm soát biên chế trong phạm vi cả nước, có Văn phòng thường trực đặt tại Bộ Nội vụ. Theo Nghị định số 449-TTg ngày 03/10/1957 về thành lập Ủy ban điều chỉnh biên chế trung ương thì thành phần Ủy ban gồm có Thủ tướng Chính phủ hoặc đại diện là Chủ tịch; Chủ nhiệm hoặc Phó Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính Thủ tướng Phủ là Ủy viên thư ký; các ủy viên gồm Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Bộ Nội vụ; Bộ trưởng Bộ Lao động; Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Bộ Tài chính; Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban Ban Thống nhất Trung ương; đại diện Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; đại diện Ban Tổ chức Trung ương Đảng; đại diện Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đối chiếu với quy định về quản lý biên chế thống nhất của hệ thống chính trị hiện nay theo Quyết định số 253-QĐ/TW ngày 21/7/2014 của Bộ Chính trị và công tác tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị, có thể khẳng định trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội còn muôn vàn khó khăn và nền hành chính non trẻ lúc đó, việc chủ động tham mưu cho Hội đồng Chính phủ thành lập Ủy ban điều chỉnh biên chế trung ương là một bước tiến bộ rất lớn, một đóng góp rất quan trọng và thiết thực, hiệu quả, thể hiện tư duy chiến lược của tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ vào việc quản lý biên chế thống nhất của cả nước; trong đó có cống hiến, đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương.

Thứ hai, về công tác cán bộ và chế độ tiền lương. Để đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ, năm 1956 Bộ Nội vụ đã điều động bổ sung cho các ngành, các cấp 12.332 cán bộ kỹ thuật, chuyên môn, nhân viên hành chính; với nguồn chính là cán bộ miền Nam, bộ đội chuyển ngành. Đồng thời, Bộ cũng rất chú trọng đối tượng Việt kiều, tuyển dụng mới ở các lớp học chuyên môn (3). Cũng trong năm 1956, Bộ Nội vụ đã nghiên cứu, xét duyệt, đề bạt tổng số 855 người, gồm 674 cán bộ Trung ương, 64 cán bộ khu và 62 cán bộ tỉnh (4). Thực hiện Nghị quyết số 17, Nghị quyết số 18 và Chỉ thị số 21 CT/TW ngày 09/6/1955 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tổ chức cán bộ trong tình hình mới, phục vụ cho kế hoạch nhà nước, để bảo đảm cung cấp đủ cán bộ đáp ứng nhu cầu cho các ngành, các cấp về số lượng, chất lượng, Bộ Nội vụ đã nghiên cứu, thực hiện kế hoạch điều động, phân phối, đào tạo, đề bạt đủ số cán bộ cung cấp kịp thời cho công tác cải cách ruộng đất, phục hồi kinh tế và công tác của các khu tự trị. 

Theo tinh thần đó, Thứ trưởng Lê Văn Lương đã cùng tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ tham mưu Hội đồng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện Thông tư số 1091-TTg ngày 23/10/1956 về nhiệm vụ quản lý và tổ chức phụ trách cán bộ, công nhân viên, học sinh, thương binh, bộ đội chuyển ngành và đồng bào miền Nam tập kết với tổng số người tập kết ra Bắc tính đến tháng 10/1955 là 167.525 (5). Bộ Nội vụ đã cùng Ban Quan hệ Bắc Nam quản lý phân công công tác đối với cán bộ về các cơ quan Trung ương, các công - nông trường và về các địa phương; bố trí việc làm cho đồng bào diện hồi hương, vượt tuyến, tham gia tổ chức các trường đào tạo con em miền Nam. Bộ đã chọn lọc cán bộ để tổ chức 7 khóa đào tạo tại Trường Cán bộ miền Nam (địa điểm đặt tại làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội khi đó) được hơn 10.000 người bao gồm trình độ cán bộ khu, cán bộ tỉnh, cán bộ huyện, xã (6). Một cống hiến, đóng góp rất quan trọng nữa của Bộ Nội vụ trong giai đoạn đồng chí Lê Văn Lương giữ cương vị Thứ trưởng là chuẩn bị các tiền đề, điều kiện hỗ trợ, giúp các bộ, ngành chỉ đạo lựa chọn cán bộ, bộ đội cho các trường đại học, chuyên nghiệp và chọn cán bộ, học sinh đi học ở nước ngoài với kết quả từ năm 1957 đến năm 1960 đã tuyển vào các trường đại học 12.469 người, trong đó có 3.119 là cán bộ và bộ đội (25%); trung cấp 34.382 người, trong đó có 6.139 là cán bộ; đi học nước ngoài 5.068 người, trong đó có 2.935 là cán bộ và bộ đội (60%), cán bộ người dân tộc thiểu số được chú ý quan tâm. Trong số cán bộ được lựa chọn đi học nước ngoài giai đoạn này có nhiều người sau khi về nước đã được Đảng và Nhà nước giao giữ trọng trách cao như đồng chí Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ học Đại học Kinh tế quốc dân Mát-xcơ-va, Liên Xô từ năm 1960 đến năm 1965; hoặc trở thành các nhà khoa học nổi tiếng, như Giáo sư, viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Giáo sư, viện sĩ Nguyễn Văn Đạo...

Về công tác tiền lương và chế độ, chính sách đối với cán bộ, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, một bất hợp lý đặt ra là có chế độ phụ cấp đắt đỏ tạm thời cho cán bộ, công nhân viên thành phố, đô thị vùng mới giải phóng nhưng ở vùng tự do cũ thì giữ nguyên mức sinh hoạt phí tối thiểu. Để giải quyết bất hợp lý này, lãnh đạo Bộ Nội vụ và lãnh đạo Bộ Tài chính đã thống nhất, ban hành và tổ chức thực hiện Thông tư liên Bộ số 185/LB ngày 07/8/1955 về điều chỉnh tạm thời sinh hoạt phí và phụ cấp của cán bộ, công nhân viên chức cũ. Tiếp đó, Bộ Nội vụ cùng Bộ Lao động và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên Bộ số 261-TTLB/NV-LĐ-TC ngày 21/3/1956 về đình chỉ cấp phát các khoản bằng hiện vật đối với cán bộ, công nhân viên các cơ quan; qua đó hủy bỏ tất cả các văn bản đã ban hành về chế độ cấp phát hiện vật cho toàn thể cán bộ, công nhân viên các cơ quan (7). Bộ Nội vụ cùng Bộ Lao động ban hành Nghị định liên bộ số 58-LĐ-LB ngày 30/4/1956 ấn định phụ cấp đặc biệt cho công nhân, nhân viên các đoàn và các đội công tác địa chất, khảo sát cầu đường và điều tra rừng; tham gia xây dựng chế độ phụ cấp khu vực cho cán bộ, công nhân viên công tác ở miền núi, hướng dẫn thực hiện Nghị định liên Bộ số 93-LB-NĐ/NV-LĐ-TC ngày 27/6/1956 và Thông tư liên Bộ số 12-TT-LB ngày 05/7/1956 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Lao động và Bộ Tài chính quy định chế độ thù lao cho cán bộ, nhân viên làm thêm giờ. Bộ Nội vụ trực tiếp ban hành Nghị định số 4173-PQC ngày 23/10/1956 hướng dẫn thực hiện quy định tạm thời chế độ bồi dưỡng cho cán bộ, công nhân viên đau ốm nằm viện. Để giải quyết tình trạng không hợp lý cho những người chưa được hưởng lương chính thức, đồng chí Lê Văn Lương cùng tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ đã thống nhất cùng lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Lao động ban hành Thông tư liên Bộ số 998-TT-LB ngày 01/9/1956 về quyết định tạm thời tiêu chuẩn lương tối thiểu cho cán bộ, công nhân viên công tác ở nước ngoài.

Từ năm 1955, đồng chí Lê Văn Lương cùng tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính, Bộ Lao động đã chủ động nghiên cứu để cải thiện chế độ tiền lương, phụ cấp của cán bộ. Kết quả đã hoàn thành và được Chính phủ thông qua biểu cấp phí 17 bậc thay cho 25 bậc trước đó, làm thí điểm sắp xếp cấp bậc, hoàn thành cấp biểu phí kỹ thuật cho ngành kỹ thuật, xây dựng, y tế, giáo dục, xây dựng cấp phí tối thiểu, tối đa, thống nhất cấp phí cho cán bộ miền Nam, xây dựng lương tuyển dụng, quy định cấp phí cho những cán bộ cần chiếu cố. Đồng thời, Bộ Nội vụ tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 1061-TTg ngày 27/9/1956 quy định lại việc sắp xếp các cán bộ giữ chức vụ ở các cơ quan Trung ương, khu, tỉnh, thành phố vào thang lương 17 bậc; đặt các thang lương sắp xếp cho cán bộ, nhân viên từ Trung ương tới các địa phương nhằm cải thiện đời sống, khuyến khích đẩy mạnh sản xuất và công tác, thực hiện kế hoạch nhà nước, thống nhất chế độ lương, giảm bớt tính bình quân và những điểm không hợp lý, dần thực hiện chế độ tiền lương theo nguyên tắc phân phối theo lao động. 

Thứ ba, trong việc củng cố chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Sau Hiệp định đình chiến, các Ủy ban kháng chiến hành chính đều đổi lại thành Ủy ban hành chính và được thiết lập từ khu tới tỉnh, huyện, xã. Ở những cấp có Hội đồng nhân dân thì Ủy ban hành chính là Ban Chấp hành của Hội đồng nhân dân và trong thời gian Hội đồng nhân dân không họp thì Ủy ban hành chính đóng vai trò là cơ quan cao nhất của chính quyền địa phương. Ở những cấp không có Hội đồng nhân dân thì Ủy ban hành chính là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương, vừa thay mặt cho nhân dân địa phương vừa là đại diện cấp trên. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Văn Lương và tập thể lãnh đạo Bộ Nội vụ, Bộ đã ban hành 02 thông tư hướng dẫn về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và cách làm việc của Hội đồng nhân dân xã và về kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc của chính quyền cấp xã, hướng dẫn các xã đã hợp tác hóa sắp xếp tổ chức gọn nhẹ, sửa đổi lề lối làm việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Năm 1956, Bộ Nội vụ xây dựng Bản đề án về tổ chức và lề lối làm việc của chính quyền cấp xã. 

Đó là những tiền đề rất quan trọng để ngày 26/11/1957, Bộ Nội vụ ban hành Đề án tổ chức lề lối làm việc của chính quyền cấp xã miền núi và đến năm 1958, Bộ đã xây dựng xong Bản dự thảo Điều lệ, tổ chức biên chế, lề lối làm việc của chính quyền cấp huyện; Điều lệ tổ chức bộ máy chính quyền cấp huyện. Điều lệ tổ chức bộ máy chính quyền cấp huyện gồm 3 chương và 47 điều, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ cấp huyện, phân công trong Ủy ban hành chính, các bộ phận chuyên môn giúp việc, Văn phòng Ủy ban hành chính huyện, lề lối làm việc, chế độ sinh hoạt. Thực hiện Thông tư số 289/TTg ngày 10/6/1958 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ đã hướng dẫn việc kiện toàn chính quyền địa phương, giúp các địa phương củng cố, tăng cường số và chất lượng Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính để chính quyền có khả năng động viên nhân dân tham gia, quản lý công việc nhà nước; tham gia xây dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa I thông qua và ngày 31/5/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ban hành Luật số 110-SL.12. Đến nay, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý vẫn đánh giá cao nhiều quy định tiến bộ, hiện đại của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958. Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962 vẫn kế thừa, phát huy tinh thần này để quy định tổ chức các cấp chính quyền ở tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương là khác nhau. Cụ thể là ở tỉnh tổ chức ba cấp chính quyền hoàn chỉnh là cấp tỉnh - cấp huyện và cấp xã; ở mỗi cấp đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Nhưng ở khu vực nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương chỉ tổ chức hai cấp chính quyền là cấp thành phố và cấp khu phố, và ở mỗi cấp đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Thực tế cho thấy, nhiều quan điểm, tinh thần tiến bộ của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 đã được kế thừa, phát triển không chỉ trong quá trình xây dựng, ban hành mà cả trong triển khai thi hành pháp luật về chính quyền địa phương hiện hành.

Mặc dù thời gian giữ trọng trách Thứ trưởng Bộ Nội vụ không dài (từ năm 1954 đến năm 1956), song cùng với tập thể lãnh đạo Bộ và cán bộ, công chức Bộ Nội vụ khi đó, đồng chí Lê Văn Lương đã có những đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành những nhiệm vụ rất to lớn, mới mẻ, khó khăn và nặng nề mà Đảng và Nhà nước tin tưởng giao phó Bộ Nội vụ. Lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và Bộ Nội vụ nói riêng mãi mãi ghi nhận, tôn vinh những cống hiến, đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương - nhà cách mạng thuộc thế hệ tiền bối đầu tiên của Đảng, Nhà nước và Bộ Nội vụ. Các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Bộ Nội vụ, ngành Nội vụ luôn thành kính tưởng nhớ và nguyện học tập, làm theo tấm gương sáng của đồng chí Lê Văn Lương - nhà lãnh đạo của Bộ Nội vụ luôn luôn gương mẫu, tận tụy với công việc, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng và Nhân dân ta./.

------------------

Chú thích:

1. Công báo số 4, 1954, tr. 22; công báo số 9, 1954, tr.87, phông Bộ Nội vụ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

2. Hồ sơ số 1046, phông Bộ Nội vụ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

3. Hồ sơ số 1081, phông Bộ Nội vụ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

4. Hồ sơ số 1081, phông Bộ Nội vụ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

5. Hồ sơ số 925, phông Bộ Nội vụ Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

6. Hồ sơ số 948, phông Bộ Nội vụ Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

7. Công báo số 6, 1956, tr. 67-68.

 

TS TRẦN NGHỊ - Tổng biên tập Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ

tcnn.vn