Phó Trưởng khoa LLCS
1. Đặt vấn đề
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân và không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển khu vực này một cách lành mạnh, hiệu quả và bền vững.
Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW “Về tiếp tục đổi mới tư duy, chính sách và tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận và thực tiễn, thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong chính sách của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.
Đối với các trường chính trị, việc vận dụng nội dung của Nghị quyết số 68-NQ/TW vào giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị, bám sát thực tiễn và định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động đúng đắn cho cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong tình hình mới.
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân tiếp tục thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta, đồng thời cụ thể hóa những định hướng lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. So với các nghị quyết trước đây, Nghị quyết 68-NQ/TW có nhiều điểm mới và trọng tâm nổi bật, có thể khái quát ở các nội dung sau:
Một là, bổ sung và hoàn thiện nhận thức lý luận về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân. Nghị quyết 68-NQ/TW khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong cấu trúc nền kinh tế quốc dân. Nếu như trước đây, các văn kiện Đảng thường nêu "kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng", thì nay từ ngữ được điều chỉnh để thể hiện mức độ ưu tiên và tầm quan trọng cao hơn. Đây là sự khẳng định nhất quán và mạnh mẽ hơn, thể hiện quyết tâm chính trị trong việc phát triển khu vực kinh tế này.
Hai là, tư duy phát triển kinh tế tư nhân toàn diện, bền vững và có trách nhiệm xã hội. Nghị quyết nhấn mạnh: phát triển kinh tế tư nhân không chỉ thuần túy là phát triển về quy mô, số lượng doanh nghiệp hay mức đóng góp GDP, mà cần phát triển bền vững, có trách nhiệm với xã hội, với người lao động và môi trường. Nghị quyết yêu cầu doanh nghiệp tư nhân không được tăng trưởng bằng mọi giá, mà phải nâng cao năng suất, đổi mới công nghệ, bảo vệ môi trường và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội. Đây là một điểm mới về chất lượng phát triển, hướng tới hình mẫu doanh nghiệp tư nhân "xanh - sáng tạo - hiệu quả - trách nhiệm".
Ba là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thực sự công bằng, minh bạch giữa các thành phần kinh tế. Một trong những điểm trọng tâm nổi bật của Nghị quyết 68-NQ/TW là yêu cầu loại bỏ rào cản pháp lý, cơ chế xin - cho, và tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Nghị quyết nhấn mạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng tiếp cận vốn, tài nguyên, cơ hội thị trường, dự án đầu tư công... Nghị quyết chỉ rõ: cần sửa đổi các luật liên quan, nhất là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu… để đồng bộ, minh bạch, thân thiện với doanh nghiệp tư nhân. Đây là chuyển biến tư duy quan trọng: từ chỗ hỗ trợ, khuyến khích sang tạo lập một môi trường thể chế bình đẳng thực chất.
Bốn là, phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam - lực lượng nòng cốt trong hiện đại hóa đất nước. Lần đầu tiên, trong một nghị quyết của Bộ Chính trị về kinh tế tư nhân, doanh nhân được xác định là lực lượng quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần được bồi dưỡng, đào tạo và phát triển như một nguồn lực đặc biệt. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ: xây dựng đội ngũ doanh nhân có bản lĩnh chính trị, tinh thần dân tộc, đạo đức nghề nghiệp, năng lực quản trị hiện đại và khát vọng cống hiến. Điểm mới này cho thấy sự coi trọng không chỉ "thành phần kinh tế" mà còn là chủ thể con người cụ thể của nền kinh tế tư nhân - đó là doanh nhân.
Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong khu vực tư nhân. Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân gắn với chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, thúc đẩy hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công ty công nghệ, doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn, nông nghiệp công nghệ, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đây là điểm mới thể hiện tư duy phát triển hiện đại, gắn kết với các xu hướng toàn cầu, và là lời giải cho câu hỏi: kinh tế tư nhân Việt Nam cần đi theo hướng nào trong giai đoạn tới.
Sáu là, phát triển kinh tế tư nhân có tính liên kết vùng, ngành, và kết nối với doanh nghiệp nhà nước và FDI. Khác với tư duy phát triển kinh tế tư nhân đơn lẻ trước đây, Nghị quyết yêu cầu phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong một hệ sinh thái kết nối chặt chẽ với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI, và có sự liên kết theo chuỗi ngành hàng, chuỗi giá trị, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, xuất khẩu và logistics. Điều này nhằm khắc phục tình trạng manh mún, thiếu liên kết, phát triển tự phát, yếu về khả năng cạnh tranh của khu vực tư nhân hiện nay.
Bảy là, hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy hộ kinh doanh phát triển thành doanh nghiệp. Nghị quyết dành nội dung cụ thể yêu cầu sửa đổi cơ chế quản lý, thuế, kế toán để tạo điều kiện cho hàng triệu hộ kinh doanh cá thể phát triển chính thức thành doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ về đào tạo, pháp lý và tiếp cận tín dụng. Đây là bước đi thực tiễn nhằm mở rộng nền tảng doanh nghiệp tư nhân chính quy, minh bạch và có khả năng hội nhập quốc tế.
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn để vận dụng Nghị quyết 68-NQ/TW vào giảng dạy môn Kinh tế chính trị
Thứ nhất, việc vận dụng Nghị quyết này là phù hợp với nội dung chương trình môn học. Trong chương trình môn Kinh tế chính trị trung cấp lý luận chính trị, có các nội dung liên quan như:
- Phân tích các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH;
- Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
- Chính sách phát triển các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, kết nối giữa lý luận với thực tiễn: Việc vận dụng Nghị quyết 68-NQ/TW giúp học viên hiểu rõ hơn về cách Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế.
Thứ ba, cập nhật tri thức mới - nâng cao tính thời sự của bài giảng: Nội dung của Nghị quyết 68-NQ/TW góp phần làm phong phú thêm hệ thống dẫn chứng, số liệu và định hướng trong giảng dạy, giúp học viên hình thành tư duy biện chứng, toàn diện về chính sách kinh tế.
4. Một số gợi ý vận dụng cụ thể vào bài giảng môn Kinh tế chính trị
Về nội dung:
Khi giảng dạy bài 16 - Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, giảng viên có thể vận dụng khi phân tích tính tất yếu khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Giảng viên có thể dẫn chứng việc Đảng ta liên tục khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó các thành phần kinh tế đều bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Nghị quyết 68-NQ/TW là sự tiếp nối tư tưởng này, với điểm mới là đặt kinh tế tư nhân ngang hàng với các thành phần khác về cơ hội phát triển, coi đây là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, không chỉ là thành phần “được khuyến khích” như trước kia.
Khi trình bày đặc điểm của kinh tế tư nhân, giảng viên cần phân tích rõ: kinh tế tư nhân bao gồm hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần không có vốn nhà nước... với quy mô và trình độ phát triển rất đa dạng. Lồng ghép số liệu cập nhật từ Nghị quyết 68-NQ/TW: tính đến năm 2025, khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sử dụng khoảng 85% lực lượng lao động toàn xã hội; tuy nhiên vẫn còn hạn chế về năng suất lao động và khả năng liên kết chuỗi giá trị. Giảng viên có thể đặt câu hỏi thảo luận: "Theo anh/chị, vì sao một khu vực kinh tế chiếm tỷ trọng lớn về lao động và đóng góp GDP lại chưa trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế? Đảng ta đang tháo gỡ khó khăn gì cho khu vực này?"
5. Kết luận
Việc vận dụng Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị vào giảng dạy môn Kinh tế chính trị trong chương trình trung cấp lý luận chính trị không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn giúp đội ngũ cán bộ cơ sở nắm bắt, hiểu đúng và triển khai hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân. Đây cũng là một bước cụ thể hóa yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh, năng lực và tư duy đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Ths. Đỗ Thu Hằng
Phó Trưởng khoa LLCS
Tin khác