• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC - GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI
Ngày xuất bản: 11/06/2025 4:19:00 CH
Lượt đọc: 1015

 

C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, làm cơ sở cho các đảng cộng sản xác định đường lối cách mạng. Tuy nhiên, do xuất phát từ hoàn cảnh châu Âu, các ông chủ yếu tập trung vào vấn đề giai cấp, điều này không còn phù hợp với thực tiễn cách mạng ở các nước thuộc địa. Người đầu tiên kịp thời bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, phù hợp với điều kiện mới, chính là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, đó là đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn các nước thuộc địa và sự khác biệt về điều kiện lịch sử, Người đã có những sáng tạo to lớn trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam.

Khác với các nhà kinh điển Macxit vốn xuất phát từ điều kiện các nước tư bản phát triển, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ hàng đầu không phải là làm cách mạng vô sản ngay lập tức, mà trước hết phải giành lại độc lập dân tộc. Theo Người, chỉ khi có độc lập dân tộc thì mới có điều kiện, nền tảng để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và giải quyết triệt để vấn đề giai cấp. Từ đó, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng trong thời đại mới, cần đặt vấn đề dân tộc lên trên vấn đề giai cấp, bởi giải quyết được vấn đề dân tộc cũng là tạo tiền đề để giải quyết vấn đề giai cấp.

Về mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc: Trong khi nhiều người vẫn cho rằng các dân tộc thuộc địa phải chờ đợi sự thành công của cách mạng ở các nước tư bản phát triển, Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mạng giải phóng dân tộc hoàn toàn có thể và cần phải chủ động tiến hành, thậm chí có thể giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Quan điểm này không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược, tính độc lập, tự chủ trong tư duy cách mạng của Hồ Chí Minh, mà còn góp phần quan trọng vào việc phát triển lý luận cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới.

Tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (1924) ở Mátxcơva (Liên Xô), Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí, cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người cho rằng, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước chính quốc. Để làm được điều đó, nhân dân thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới. Những quan điểm của Hồ Chí Minh khẳng định tính phù hợp, sự phát triển sáng tạo giữa lý luận và thực tiễn cách mạng khi giải quyết mối quan hệ dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Về lực lượng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo thì mới giành được thắng lợi triệt để. Người nói: Cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”[1]. Để đảm bảo sau khi thắng lợi, đa số nhân dân lao động được hưởng ấm no hạnh phúc, thì cách mạng phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (mà nòng cốt là liên minh công nông). Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: Chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.

Về lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc: Quan điểm của  Hồ Chí Minh nêu rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”. Về vấn đề này,  Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn của các nước thuộc địa đã đưa ra những quan điểm mới, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Bộ phận trung tâm trong lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là công nhân, nông dân và khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Mặt khác, khi nghiên cứu điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, với dân số hơn 95% là nông dân, Hồ Chí Minh nhận định: Nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa, cho nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân, và là sự nghiệp của toàn dân. Đây là một phát hiện quan trọng của Hồ Chí Minh về vai trò, sứ mệnh và khả năng thực thi nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa nói chung và giai cấp nông dân Việt Nam nói riêng. Người sớm nhìn thấy giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng cách mạng tiềm tàng, có những khả năng rất to lớn và nếu: “Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy đánh tan”[2].

Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng trước sau Hồ Chí Minh vẫn luôn khẳng định rằng, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”[3]. Đây là một luận điểm rất mới mẻ của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, đối với cách Việt Nam, luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn đúng đắn.

Về phương pháp cách mạng: Nghiên cứu về phong trào đấu tranh yêu nước, cách mạng ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ yếu dùng phương pháp đấu tranh bằng con đường cải lương, sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, đấu tranh bằng phương pháp hòa bình để giành độc lập dân tộc. Nhưng theo Người đó chỉ là phương pháp mang tính ảo tưởng, thiếu thực tế và thất bại là không tránh khỏi. Vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm lược, nô dịch và lợi nhuận, nên sẽ không dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa mà chúng đang bóc lột, thu lợi. Đối với phương pháp đấu tranh bằng hình thức vũ trang bạo động, nhờ sự giúp đỡ của bên ngoài, hoặc bằng phương pháp vũ trang ám sát theo khuynh hướng dân chủ tư sản, cũng đều dẫn đến thất bại, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

Theo Người, phải sử dụng cách mạng bạo lực như lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, nhưng đối với điều kiện Việt Nam phải kết hợp khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị của quần chúng, vì đó là điểm tựa để phát triển lực lượng vũ trang, tổ chức các hình thức đấu tranh vũ trang từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể. Hồ Chí Minh dự báo: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”[4]. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh chỉ đạo tích cực xây dựng phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là chỉ đạo xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng: hàng loạt các Hội Cứu quốc: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... ra đời. Các đơn vị vũ trang cũng được thành lập: Đội Cứu quốc quân I và Cứu quốc quân II, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, các đội du kích... lần lượt ra đời. Với sự chủ động, tích cực đón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, có lệnh tổng khởi nghĩa, chỉ trong thời gian ngắn chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.

Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa, hình thành một hệ thống luận điểm khá hoàn chỉnh, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, trong đó cơ bản những quan điểm của Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ việc nghiên cứu tổng kết qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định, đó là thành quả của một tư duy sáng tạo, thể hiện tư tưởng cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong tiến trình đấu tranh cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới của Hồ Chí Minh.

Giá trị và ý nghĩa lịch sử của những quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được minh chứng sinh động bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945) và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ của nhân dân Việt Nam. Qua thực tiễn vận động của phong trào cách mạng thế giới trong những năm giữa thập niên 50 của thế kỷ XX càng chứng tỏ rằng, những cống hiến lý luận xuất sắc của Hồ Chí Minh đã kịp thời bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời cổ vũ, động viên dẫn dắt các dân tộc thuộc địa trên thế giới noi theo Việt Nam, đứng lên làm cách mạng giải phóng, giành độc lập dân tộc. Điều đó mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ người Việt Nam.

Trong hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, có những quan điểm đặc biệt quan trọng như: Quan điểm lý luận về xây dựng, tổ chức đảng cộng sản ở một nước thuộc địa. Cụ thể như ở Việt Nam một nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân ra đời muộn, lại vừa yếu về trình độ nhận thức chính trị, ý thức giai cấp và thiếu về lực lượng. Thành công của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một chính đảng mácxít ở Việt Nam, thể hiện thiên tài về trí tuệ, sự mẫu mực về việc vận dụng lý luận vào thực tiễn của Người. Đồng thời là một đóng góp to lớn và quan trọng của Hồ Chí Minh vào lý luận xây dựng đảng cộng sản trên thế giới.

Trong vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng, nếu như các nhà cách mạng kinh điển mácxít chỉ coi trọng lực lượng công - nông, thì Hồ Chí Minh lại đưa ra quan điểm xây dựng, tập hợp lực lượng trên mẫu số chung là “lòng yêu nước”. Đối với Người, tất cả những ai có lòng yêu nước, có mong muốn giải phóng dân tộc đều trở thành lực lượng cách mạng. Do đó, phải vận động, giác ngộ tất cả các thành phần dân tộc, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo... đều vận động họ tham gia cách mạng. Đó là tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc, được Hồ Chí Minh thể hiện bằng một sắc thái mới, tư duy mới trong thời đại mới. Có thể nói rằng, xuất phát từ tinh thần yêu nước, thương dân, khát khao độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, đứng trên lập trường mácxít (lịch sử và biện chứng), Hồ Chí Minh đã xây dựng nên các quan điểm lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Chính vì thế, những quan điểm cách mạng của Người hướng tới mục tiêu phục vụ cho quyền lợi và khát vọng của cả dân tộc, hòa quyện trong tình yêu giai cấp, nhân loại, đượm tính nhân văn, không có ranh giới quốc gia ngăn cách.

Hồ Chí Minh không chỉ tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam mà còn góp phần quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ. Nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã khẳng định giá trị tư tưởng và cống hiến to lớn của Người. UNESCO từng nhấn mạnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất của quyết tâm dân tộc, suốt đời cống hiến cho độc lập, tự do, hòa bình và tiến bộ xã hội. Tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Người để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại, trở thành giá trị trường tồn vượt qua mọi ranh giới về không gian và thời gian. Những đóng góp vĩ đại ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, tiếp tục truyền cảm hứng, củng cố niềm tin và lý tưởng cho các thế hệ hôm nay trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ths. Nguyễn Thị Trang Nhung

                                                               Khoa Lý luận cơ sở

 

 

-----------------

[1]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.2, tr.289

[2] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 8, tr.358

[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 3, tr.3

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.129.