• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
PHƯƠNG CHÂM DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ngày xuất bản: 08/11/2021 12:06:00 CH
Lượt đọc: 13376

 

 “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” dù chỉ là một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc trao đổi với cụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (tháng 5/1946), nhưng nó đã trở thành một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của cách mạng Việt Nam được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp cách mạng ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Quan điểm của Người đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện Đại hội, đặc biệt là Đại hội lần thứ XIII của Đảng.Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, tiến bước mạnh mẽ dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thực hiện khát vọng dân tộc, tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra theo tinh thần của Đại hội XIII thì việc quay trở lại với phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh là điều vô cùng cần thiết.

1. Phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đây không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận mà còn là một phương pháp thực hành cách mạng của Hồ Chí Minh.

Dĩ bất biến là giữ vững nguyên tắc, giữ vững mục tiêu. Cái bất biến của Hồ Chí Minh là không có gì quý hơn độc lập, tự do, là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt.

Dĩ bất biến nhưng phải biết ứng vạn biến, nghĩa là linh hoạt mềm dẻo về sách lược và cách thức thực hiện, là biết sử dụng, kết hợp các phương pháp. Ứng vạn biến mà không xa rời, chệch hướng, từ bỏ cái bất biến, không được coi cái trước mắt là tất cả, còn cái đích lâu dài chỉ là số không, không được phép hy sinh tương lai của phong trào cho cái hiện tại. Phải biết kết hợp giữa cái chung với cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù, biết tổng hợp nhiều cách đánh và cách thắng, biết thắng từng bước “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào" .

Tạo thành sức mạnh tổng hợp từ kết hợp nhiều cách thức, biện pháp để ứng vạn biến trong các tình huống cách mạng khác nhau là nét đặc sắc của phương pháp Hồ Chí Minh.

2. Phương châm “dĩ bất biến” và tư duy của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII

Tư duy “ dĩ bất biến” của Đảng được thể hiện trong các vấn đề sau:

Một là, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, khẳng định đây là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới

Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội” tiếp tục được Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, Đảng ta xác định, tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Hai là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa về vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của Đảng,  Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.

Ba là, giữ vững quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân

Về nguyên tắc “lấy dân làm gốc” được Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức”. Thực hiện tốt, có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Bốn là, kiên định mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng chiến lược nhất quán của Đảng là xây dựng một thể chế chính trị - xã hội của dân, do dân và vì dân. Để đạt mục tiêu đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố; tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải đẩy mạnh thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cơ chế dân chủ được khẳng định trong thực tiễn đời sống xã hội; vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ luôn được phát huy.

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là những mục tiêu không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền đề cho mục tiêu kia. Đó cũng là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững, từng bước được hiện thực hóa trong quá trình đổi mới đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khi đạt được 5 mục tiêu và đích đến đó, chắc chắn chúng ta có chủ nghĩa xã hội, nếu không, chủ nghĩa xã hội mãi mãi xa vời và trừu tượng. Để đạt được những mục tiêu trên cần có đột phá mạnh mẽ tư duy về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng. Đặc biệt luôn tiếp thu, học hỏi cái mới, cái tiến bộ của các nước để dựng xây đất nước mình; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huy động, mọi  tiềm năng và sức sáng tạo cho phát triển từ đó tạo nên một động lực, một khát vọng vươn lên trong con người Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một đất nước giàu mạnh, phồn vinh sánh vai với các cường quốc năm châu.

 

Năm là, kiên định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, "tự diễn biến”“tự chuyển hóa ” trong nội bộ

Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng là nội dung quan trọng, với chủ trương là “tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”. Để làm tốt điều đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên và Nhân dân; kiên trì giáo dục, rèn luyện lối sống trong sạch, lành mạnh, sống có trách nhiệm, lòng tự trọng cao, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”’ khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”... quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng; kiểm soát hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.

Sáu là, kiên định mục tiêu bảo vệ Tổ quốcxây dựng quân đội, công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại

Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là phải bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, kỷ cương; đảm bảo an ninh kinh tế, xã hội, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Với quan điểm đó, Đảng ta đã khẳng định quan điểm nhất quán, “dĩ bất biến” đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; coi đó là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, lấy Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đồng thời kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

3. Phương châm “ứng vạn biến” và tư duy của Đảng trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII

Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng - cái “bất biến”, Đảng đã tiến hành tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, từ đó kế thừa, phát triển sáng tạo trong hoạch định các sách lược chỉ đạo hành động trên mọi lĩnh vực, cái “vạn biến” linh hoạt của Đảng được thể hiện trên các mặt sau:

Một là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện trên các mặt

Thực tiễn hơn 90 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt, quyết định đến sức mạnh, uy tín của Đảng. Thông qua các cuộc chỉnh đốn Đảng đã mang lại những kết quả tích cực. Đảng ta cũng đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý báu là: Nếu một đảng cầm quyền bị thoái hóa, biến chất; đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, mơ hồ về lý tưởng, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”, thì tất yếu đảng đó sẽ bị mất vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, dẫn đến sự tan rã. Bởi vậy, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, làm cho Đảng đoàn kết, trong sạch, vững mạnh hơn, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng được tăng cường luôn là nhiệm vụ then chốt. Đó chính là việc tự đổi mới, tự hoàn thiện, giúp Đảng luôn có bản lĩnh chính trị kiên cường, tầm tư duy sáng suốt, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, hoàn thành sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề xuất “Lấy hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước”. Trong đó, cần tập trung sửa đổi những quy định không thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử; đổi mới phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Đồng thời, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới xuất hiện trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, thực hiện nhiều hình thức hội nhập quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.

Ba là, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam thời đại mới

Một trong các đặc trưng của xã hội chủ nghĩa được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng xác định là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Kế thừa, phát triển sáng tạo quan điểm trên trong giai đoạn hiện nay, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh của con người Việt Nam trong thời kỳ mới”.

Điều đó đã thể hiện tính “ứng vạn biến” trong đường lối của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời đại mới. Để làm được điều đó, cần thực hiện những giải pháp đột phá, mạnh mẽ nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hoá Việt Nam. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hoá. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hoá giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp, v.v. Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả của các loại hình văn hóa, văn nghệ. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hoá. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Bốn là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, thích ứng năng động trước những biến chuyển của tình hình; tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy, hiểu biết lẫn nhau.

Ngoại giao Việt Nam cần phát huy tốt vai trò là “một mặt trận” tiên phong nhằm củng cố vững chắc môi trường quốc tế thuận lợi và thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy. Các “binh chủng” của đối ngoại Việt Nam, gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân cần đồng tâm, hiệp lực để tận dụng được những cơ hội mới và xử lý hiệu quả những thách thức phức tạp đang đặt ra. Tiếp tục giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài. Trong quá trình đó, Đảng ta luôn khẳng định, Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, và “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đồng thời, khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.

Năm là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm “bất biến” của Đảng ta, nhưng trong những thời điểm, bước ngoặt của cách mạng đều có sự vận dụng phù hợp, sáng tạo để thực hiện tốt quan điểm này. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định: Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn kết với nền an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Bên cạnh những thuận lợi là chủ yếu, đất nước đang phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức, nhất là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, từng ban, bộ, ngành Trung ương, mỗi địa phương, mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tốt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế. Trong đó, tuyệt đối phải đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội là “bất biến”; song song với đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phân định kịp thời đối tác, đối tượng, cần chủ động, nhạy bén, linh hoạt “ứng vạn biến” để không ngừng phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế của Đảng.

 

Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần nhận thức sâu sắc các yếu tố đã và đang tác động đến mục tiêu đã định, qua đó có biện pháp ứng phó kịp thời, phù hợp. Phát triển kinh tế, nhất là đẩy mạnh tăng trưởng nhưng vẫn giữ được độc lập, tự chủ; không đi chệch mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội,..Đòi hỏi mỗi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả hôm nay và mai sau.

 

Từ Thị Thoa – Khoa Lý luận cơ sở