• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
Những nhận thức mới về công tác dân vận theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Ngày xuất bản: 20/10/2021 1:18:00 CH
Lượt đọc: 11244

BÙI TUẤN QUANG

Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương

13:51, ngày 18-10-2021

TCCS - Các văn kiện Đại hội XIII của Đảng kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng và khát vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Các văn kiện thể hiện nhất quán, sáng tạo các nguyên tắc cơ bản giữa kế thừa và phát triển, giữa kiên định và đổi mới, kết hợp nhuần nhuyễn thực tiễn và lý luận trong nhiều lĩnh vực quan trọng, mang tính thời sự; trong đó, các nội dung và nhận thức về công tác dân vận được đề cập một cách toàn diện, sâu sắc, với nhiều điểm mới nổi bật.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân thôn Tân Văn, xã Thạch Văn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh _Ảnh: TTXVN

Thứ nhất, khẳng định sâu sắc hơn tầm quan trọng và yêu cầu cao hơn về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; về vai trò của nhân dân đối với công tác xây dựng Đảng

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác dân vận của Đảng, của hệ thống chính trị luôn được chú trọng và tiếp tục có nhiều đổi mới quan trọng; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân được củng cố, tăng cường hơn. Tuy nhiên, công tác dân vận có nơi, có lúc kết quả còn hạn chế; công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có nơi hiệu quả thực hiện chưa cao; việc nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình ở một số địa phương, cơ sở chưa sâu sát; chưa kịp thời giải quyết những bức xúc và các nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân; từ đó, làm ảnh hưởng đến lòng tin và mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Công tác xây dựng Đảng tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng một số nơi vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của nhân dân, chưa tạo cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, nên hiệu quả thực hiện nhiệm vụ “then chốt” ở những nơi này còn thấp.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ là: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(1). Yêu cầu này đã thể hiện nhận thức mới ở những điểm sau:

Một là, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hữu cơ, tất yếu được Điều lệ Đảng xác lập và Hiến pháp ghi nhận, được thể hiện trên một số yếu tố cơ bản: 1- Chủ trương của Đảng hợp với nguyện vọng, ý chí, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; 2- Chính quyền các cấp cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tổ chức thực hiện kịp thời, đúng đắn, có trách nhiệm phục vụ nhân dân, vì đời sống của nhân dân; 3- Có sự tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đưa chủ trương, chính sách đến với nhân dân, vận động nhân dân thực hiện; 4- Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức gương mẫu, trách nhiệm trong thực thi công vụ và gần dân, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân; 5- Nhân dân được tôn trọng, phát huy vai trò của mình trong tham gia xây dựng, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Những việc làm đó được thực hiện tốt sẽ góp phần củng cố và gắn bó chặt chẽ hơn nữa quan hệ giữa Đảng với nhân dân,...

Trong các giai đoạn cách mạng, do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, có chủ trương chậm được thể chế hóa và khi thực hiện còn sai sót, chậm đến được với nhân dân; một số cán bộ, đảng viên còn biểu hiện quan liêu, tiêu cực, xa dân,... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Nhưng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm gìn giữ và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Điều đó được thể hiện qua nghị quyết của các kỳ đại hội và nhiều nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, quy định,... về vấn đề này. Thực tế, qua từng thời kỳ cách mạng, mối quan hệ này đã không ngừng được tăng cường, củng cố và ngày càng bền chắc. Song, cũng phải thấy rằng, khoảng cách giữa Đảng với nhân  nhân dân cần phải được rút ngắn hơn nữa, gần nhau hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, “thắt chặt” mối quan hệ là yêu cầu cao hơn, thể hiện mối quan hệ không chỉ bền chắc, mà còn gần gũi, khăng khít hơn. Đây là một nhận thức mới hết sức đúng đắn, sâu sắc và hợp với quy luật phát triển.

Theo đó, để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”(2) và “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội...”(3); “Tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu... Phê phán, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân”(4).

Hai là, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa cụm từ “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” vào trong một đầu mục (mục XIV.8), thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng trong tình hình mới. Điều lệ Đảng (được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng) đã nêu yêu cầu “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” và thực tế của quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn xác định và thực hiện tốt phát huy vai trò nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; thông qua một số nghị quyết, chỉ thị, quy định cụ thể để nhân dân giám sát, như Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”,... Điều đó cho thấy sự nhận thức sâu sắc hơn, khẳng định ý nghĩa và đặt ra yêu cầu cao hơn đối với việc phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai chúc mừng Hòa thượng Dương Nhơn, Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhân dịp Đại lễ Phật đản 2019 - Phật lịch 2563 (năm 2019) _Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tiếp tục khẳng định vai trò của nhân dân và đề cao hơn nữa  việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân

Từ khẳng định của Đại hội XII của Đảng: “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế”(5) cho thấy, quyền làm chủ của nhân dân đã được phát huy cao hơn trong việc tham gia quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Tuy nhiên, dân chủ hóa trong một số lĩnh vực còn chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về dân chủ chưa đúng mức; việc tổ chức thực hiện còn hạn chế, có lúc, có nơi còn hình thức; ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; ngược lại, có nơi còn hiện tượng lợi dụng dân chủ để vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ, cũng như cần đẩy mạnh đổi mới việc tổ chức thực hành dân chủ trong thời gian tới.

Qua tổng kết lý luận và thực tiễn, Đại hội XIII xác định, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân với những điểm mới sau:

Một là, bổ sung nội dung “dân giám sát, dân thụ hưởng” để hoàn chỉnh thành phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Quan điểm “dân là gốc”“dân là chủ” và “dân làm chủ” đã được Đảng ta quán triệt, vận dụng trong thực tiễn cách mạng. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn đặt nhân dân là chủ thể của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và coi trọng vai trò của nhân dân. Đến Đại hội XIII của Đảng, do yêu cầu phát triển đất nước ngày càng cao và trước bối cảnh mới, vai trò của nhân dân cần được đề cao hơn; tư tưởng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân được hoàn thiện thêm một bước mới. Nếu phát huy tốt vai trò giám sát của nhân dân thì sẽ ngăn ngừa được từ sớm, từ xa những tiêu cực trong xã hội. Nhân dân là người trực tiếp làm ra của cải vật chất, tinh thần, thì nhân dân phải là chủ thể được thụ hưởng; sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo là của nhân dân thì người dân phải được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đó. Đó là bản chất của chế độ ta và cũng là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việc bổ sung này cũng là bước tiếp tục cụ thể hóa thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước cũng như mọi lợi ích đều thuộc về nhân dân.

Hai là, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn lực con người: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”(6).

Ba là, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Đảng và Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt trong triển khai, tổ chức, động viên nhân dân thực hành các quy chế, quy định, cơ chế về thực hiện dân chủ; thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân.

Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương Bùi Thị Minh Hoài thăm, động viên và hỗ trợ nhân dân tỉnh Bắc Ninh phòng, chống dịch COVID-19 _Ảnh: Tư liệu

Thứ ba, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và yêu cầu mới, cao hơn về chiến lược “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”

Nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đã phát huy tốt sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tập hợp, vận động đông đảo nhân dân vào khối đại đoàn kết, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; huy động các nguồn lực, tiềm năng, sự sáng tạo trong nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, còn một số vấn đề bức xúc về đời sống, việc làm, môi trường, thiên tai, dịch bệnh, nhất là một số vụ việc phức tạp chậm được giải quyết, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chậm được đẩy lùi,... đã tác động không tốt đến tư tưởng, lòng tin của một bộ phận nhân dân, làm ảnh hưởng đến việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, tuy đã có nhiều đổi mới, tích cực là cơ bản, song tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Ở một số nơi còn chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân; việc tuyên truyền, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia một số phong trào, cuộc vận động chưa thực sự đi vào chiều sâu; công tác giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền có kết quả còn hạn chế; một số vụ việc phức tạp chậm được giải quyết, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục xác định, “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, trong đó bổ sung nhiều điểm mới:

Một là, ở chủ đề Đại hội XII của Đảng, thành tố thứ hai của chủ đề là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”; đến chủ đề Đại hội XIII của Đảng, thành tố thứ hai được bổ sung và yêu cầu cao hơn là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chísức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”. Rõ ràng, đây là một nhận thức mới, hết sức quan trọng, đúng đắn, mang tính dân tộc và thời đại, là yêu cầu rất cao, để tiếp tục đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng trong tình hình mới.

Hai là, về tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn và bổ sung trong quan điểm về động lực phát triển; qua đó, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển.

Ba là, đối với các tầng lớp nhân dân, Đảng đã khái quát, khẳng định quan điểm chung nhất, mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích xã hội.

Bốn là, về lãnh đạo đối với từng giai cấp, tầng lớp, căn cứ yêu cầu của tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung những quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp trong điều kiện mới, như: 1- Giai cấp công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế... Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay; 2- Giai cấp nông dân. Huy động và phát huy mọi nguồn lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh; 3- Đội ngũ trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng; 4- Đội ngũ doanh nhân. Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi; 5- Thế hệ trẻ. Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ; 6- Tầng lớp phụ nữ. Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; 7- Đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số,... Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững; 8- Đồng bào theo tôn giáo. Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”,... Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước; 9- Người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc,...

Bộ đội Đồn Biên phòng Pha Long, huyện Mường Khương (tỉnh Lào Cai) hướng dẫn đồng bào dân tộc thiểu số rửa tay phòng dịch COVID-19 _Ảnh: TTXVN

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu trọng tâm thứ nhất về phát triển đất nước là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đưa ra giải pháp: “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(7).

Trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội... Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8).

Thứ tư, khẳng định rõ hơn và đề cao hơn trách nhiệm với nhân dân và hiệu quả thực hiện công tác dân vận của các cơ quan hành chính nhà nước

Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,... phát huy dân chủ; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân;... Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân”(9).

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực. “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(10). “Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”(11); tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người“Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”(12). Đây là sự tiếp nối nhất quán nhận thức của Đảng về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, như một nội dung quan trọng vì mục tiêu phát triển con người. Đó cũng là hạt nhân của định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”... “có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín với nhân dân”(13). Tiếp tục  phát triển quan điểm từ Đại hội XII, đến Đại hội XIII của Đảng về xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh, nội dung đã rõ nét hơn, toàn diện hơn. Theo đó, công tác dân vận trong lực lượng vũ trang là nhằm góp phần xây dựng và phát huy “thế trận lòng dân”, cùng với xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Chiến sĩ Công an nhân dân dạy đàn cho các em khiếm thị Trường khiếm thị Nguyễn Đình Chiểu (thành phố Hà Nội) _Ảnh: TTXVN

Thứ năm, nhận thức rõ và khẳng định ý nghĩa, tác dụng của phong trào thi đua “Dân vận khéo”

Lần đầu tiên, một kỳ đại hội của Đảng đã đưa phong trào thi đua “Dân vận khéo” vào Văn kiện đại hội. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận”(14).

Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được Ban Dân vận Trung ương đề xuất và phát động vào những năm cuối thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI, được các cấp ủy đảng quan tâm thực hiện và được hệ thống dân vận các cấp triển khai thực hiện khá hiệu quả, tạo sức lan tỏa sâu rộng tới cả hệ thống chính trị; với nhiều mô hình, cách làm hay, thiết thực, đã tạo ra hàng nghìn điển hình tiên tiến mỗi năm, đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới; bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền ở cơ quan, địa phương, đơn vị. Từ năm 2013, thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã chính thức đưa phong trào thi đua “Dân vận khéo” thành nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng lãnh đạo và hệ thống chính trị tổ chức thực hiện.

Có thể khẳng định rằng, việc Đại hội XIII của Đảng bổ sung khá phong phú, toàn diện nhận thức mới, nội dung mới về công tác dân vận của Đảng là hết sức đúng đắn, sâu sắc, phù hợp. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với những nhận thức mới về công tác dân vận, cần cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch, nhất là cụ thể hóa những nội dung mới để thực hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy cao độ nguồn lực, sức mạnh của nhân dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, tiếp tục xây dựng đất nước phát triển, xã hội phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

---------------

(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
t. I, tr. 191, 191
(3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 191 - 192, 192 - 193
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 167
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 215 - 216
(7), (8), (9), (10), (11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 43, 172, 175 - 176, 176, 287, 148
(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 178 - 179, 193