Ngày 22/12/1944 là ngày đáng ghi nhớ của toàn quân và dân ta, ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là mốc đánh dấu một bước phát triển rất quan trọng của các lực lượng vũ trang nhân dân trong quá trình hình thành và phát triển từ các đội tự vệ đỏ trong Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 đến quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, hùng mạnh ngày nay. Chỉ với 318 từ, văn phong súc tích, Chỉ thị là một Cương lĩnh quân sự của Đảng, đề ra những vấn đề cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng như nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng; phương châm xây dựng và hoạt động của các thứ quân; phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang; nguyên tắc tác chiến và chiến thuật, cách đánh của lực lượng vũ trang. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tự tay người viết bản Chỉ thị lịch sử và trực tiếp thông qua 10 lời thề danh dự. Cũng chính qua Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những tư tưởng lớn về quân sự:
Một là, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Mở đầu Chỉ thị viết: “Tên, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”[1]. Tư tưởng trên là sự kế thừa, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội; truyền thống đấu tranh của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Vì vậy, tư tưởng này không chỉ là vấn đề văn hóa, khoa học mà còn phản ánh bản chất giai cấp và quy định phương hướng chiến lược của Quân đội, của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Do vậy, cần thấy rõ bản chất cách mạng của Quân đội, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt.
Hai là, việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải phát triển đồng thời các thứ quân: quân chủ lực và quân địa phương, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, trên cơ sở động viên toàn dân và vũ trang toàn dân. Khi đó, trong cao trào chuẩn bị khởi nghĩa, khắp nơi đã có các đội tự vệ cứu quốc - hầu như ở đâu có Việt Minh, ở đó có tự vệ cứu quốc. Song đây mới chỉ là lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng tại chỗ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao – Bắc – Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực”[2]. Người khẳng định: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập ra một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên”[3]. Đây là sự kế thừa và phát huy kinh nghiệm của dân tộc về xây dựng các thứ quân: “quân triều đình”, “quân các lộ” và “dân binh”. Đồng thời, là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của Ăngghen, Lênin về xây dựng các “đội dân cảnh”, xây dựng “quân đội thường trực”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Trong đó, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ba là, về phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang phải kết hợp quân sự với chính trị; về chiến thuật của Đội phải vận dụng lối đánh du kích, về nguyên tắc hành động của quân đội phải đánh thắng trận đầu. Trong bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên là “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” coi đó là một hình thức thích hợp để có thể góp phần đẩy phong trào tiến lên. Chỉ thị này còn có hàm ý: trong hoạt động của lực lượng vũ trang, quân sự phải gắn với chính trị, vũ trang gắn với tuyên truyền, quân đội phải tham gia vận động, tổ chức quần chúng, bộ đội phải bắt tay vào công tác vận động quần chúng, tổ chức Hội Việt Minh khắp nơi có quần chúng, chúng ta sẽ có tất cả, “bộ đội phải dựa chắc vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”. Về hoạt động vũ trang của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lúc bấy giờ do điều kiện vũ khí trang bị còn kém, nên chiến thuật là “vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung”[4]. Về phương hướng, nguyên tắc hành động trong một tháng phải có hoạt động để tạo sự tin tưởng cho các chiến sĩ và lập truyền thống hành động tích cực, nhanh chóng cho bộ đội. Chấp hành Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ hai ngày sau đó là ngày 24 và 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân và các đội tự vệ cứu quốc, với lối đánh dũng cảm và mưu trí, đã liên tiếp thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần, mở đầu truyền thống “đánh thắng trận đầu”, “đánh thắng nhanh, giải quyết nhanh của Quân đội ta.
Bốn là, không ngừng xây dựng và phát triển lượng, làm cho đội quân nhỏ bé đầu tiên tiến lên nhanh chóng trở thành một quân đội hùng mạnh theo yêu cầu ngày càng lớn của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở nước ta. Trong Chỉ thị, Người khẳng định: “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[5]. Đây là lòng mong muốn thiết tha, là quyết tâm vững chắc, là dự đoán khoa học của Người. Đây cũng là điều chỉ rõ tính chất cơ động của quân chủ lực, khác với tính chất tại chỗ của lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã trưởng thành nhanh chóng và lớn mạnh vượt bậc; từ lực lượng nhỏ bé tiến lên lực lượng lớn mạnh; từ vũ khí trang bị thô sơ tiến lên trang bị vũ khí ngày càng hiện đại; từ một quân đội chỉ có bộ binh tiến lên một quân đội có nhiều quân chủng, binh chủng... Quân đội ta cùng với toàn dân không chỉ làm tròn nhiệm vụ dân tộc mà còn hoàn thành vẻ vang nghĩa vụ quốc tế đối với hai dân tộc anh em Lào và Campuchia.
Có thể thấy, những tư tưởng quân sự cơ bản trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị to lớn đối với Đảng, cách mạng và quân đội ta. Đến nay, những tư tưởng cơ bản trong bản Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, vẫn là kim chỉ nam cho Đảng ta trong lãnh đạo xây dựng và phát triển quân đội thời kỳ mới. Từ tư tưởng cơ bản về việc thành lập đội quân chủ lực trong bản Chỉ thị ấy, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo xây dựng, phát triển quân đội theo hướng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Cũng chính từ tư tưởng quân sự cơ bản đó trong bản Chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào xây dựng, phát triển bộ đội địa phương và dân quân du kích, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang 3 thứ quân đáp ứng yêu cầu của công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Th.s Tạ Thị Hảo - GV Khoa Xây dựng Đảng
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.539.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.507.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.507.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.507.
Tin khác