• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ngày xuất bản: 02/08/2021 1:10:00 CH
Lượt đọc: 13028

 

Quyền con người là những giá trị thiêng liêng, cao quý kết tinh từ nhiều nền văn hóa, văn minh của các dân tộc trên thế giới. Quyền con người là các đặc quyền tự nhiện, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Trong khi đó, quyền công dân được hiểu là tổng thể các quyền và tự do cơ bản của mỗi cá nhân, tạo nên địa vị pháp lý của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước thông qua chế định quốc tịch, được thừa nhận và bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật của quốc gia. Quyền con người và quyền công dân có mối quan hệ gắn bó, tác động và bổ sung lẫn nhau. Các quyền con người phổ biến đã được công nhận trong Luật quốc tế về quyền con người là định hướng cơ bản cho bảo vệ quyền công dân ở các quốc gia. Do vậy, việc bảo vệ quyền công dân phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của quyền con người như tình phổ biến, bình đẳng và không phân biệt đối xử; không chia cắt, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Bảo đảm tốt các quyền công dân đã được Hiến pháp, pháp luật quốc gia quy định cũng chính là bảo đảm tốt các quyền con người. Do vậy vi phạm hay tước bỏ quyền cơ bản của công dân sẽ làm giảm tư cách công dân và thực chất là giảm tư cách con người của họ trong xã hội.

Hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân chia thành các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh cá quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay chưa thừa nhận rộng rãi ngành luật về quyền con người. Tuy nhiên, quyền con người, quyền công dân là nội dung quan trọng cấu thành Hiến pháp và luật nên đã được quy định trong hầu hết các ngành luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định của Điều 4, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm 2020 thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết do Quốc hội ban hành và các văn bản dưới luật do Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và chính quyền địa phương các cấp ban hành. Tuy nhiên, trên thực tế không phải cơ quan nào cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp về quyền con người, quyền công dân, vì theo Điều 50, 51 Hiến pháp năm 1992 thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định và do vậy, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Đồng thời, khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, để bảo đảm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được thực thi trong thực tiễn cần có các văn bản dưới luật cụ thể hóa, chi tiết hóa các quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp và luật.

Luật Hiến pháp là đạo luật cơ bản, quan trọng nhất của đất nước, xác định thể chế chính trị, các thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quy định địa vị pháp lý của cá nhân, công dân trong mối quan hệ với nhà nước và đặc biệt, Hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, do vậy chế định quyền con người, quyền công dân luôn là một nội dung quan trọng cấu thành Hiến pháp. Trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, từ bản Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân luôn giữ vị trí quan trọng, cấu thành Hiến pháp. Tuy nhiên, so với các bản HIến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến bảo vệ quyền con người, quyền công dân, là kết quả đánh dấu 30 năm Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới. Hiến pháp đã quy định đầy đủ và toàn diện hệ thống các quyền con người, quyền công dân phù hợp với thực tiễn Việt Nam với chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Trong Hiến pháp năm 2013, gồm 120 điều, trong đó đã dành 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định ở Chương 2, Hiến pháp. Điều đáng chú ý, quyền con người, quyền công dân không chỉ được quy định ở một chương mà còn nằm ở nhiều chương khác nhau của Hiến pháp. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trên một số điểm cơ bản sau đây:

Một là, về tên gọi và vị trí của chương. Tên gọi mới trong Hiến pháp năm 2013 là “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản” và được chuyển vị trí từ Chương V Hiến pháp năm 1992 lên Chương II. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người” đã trở thành tên gọi của Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó. Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại. Việc thay đổi tên Chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 còn thể hiện sự nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Hai là, về khái niệm quyền con người, quyền công dân đã có sự phân biệt. Hiến pháp năm 1992 có đề cập quyền con người, nhưng do đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nên chưa phân biệt được quyền con người, quyền công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc phục hạn chế, Hiến pháp năm 2013 có sự phân biệt rõ ràng chủ thể của quyền con người là “mọi người”, “mọi người có quyền”, và chủ thể của quyền công dân là “công dân”, “công dân có quyền và có nghĩa vụ”.

Ba là, về hạn chế quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân, theo đó tại khoản 2, Điều 14 quy định quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng đồng. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp quy định quyền con người, quyền công dân có thể bị hạn chế phù hợp chuẩn mực quốc tế về quyền con người.

Bốn là, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. So với quy định tại Điều 50, Hiến pháp năm 1992: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” tại điều khoản 3, Điều 3 và “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” tại khoản 1, Điều 14. Như vậy có thể khẳng định Hiến pháp năm 2013 đã đặt trọng tâm trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm nhiều quyền mới, đó là các quyền như: quyền sống (Điều 19), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 21), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21), quyền bảo đảm an sinh xã hội (Điều 30), quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43).

Sáu là, Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục kế thừa các nghĩa vụ cơ bản của công dân và sửa đổi, bổ sung một số quy định về nghĩa vụ cho phù hợp với các quy định về chủ thể của quyền con người, quyền công dân. Chẳng hạn quy định “mọi người có nghĩa vụ nộp thuế”, trước kia nghĩa vụ này chỉ quy định “công dân”. Hiến pháp quy định một số quyền đồng thời là nghĩa vụ, như mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bênh; công dân có quyền và nghĩa vụ học tập; mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành và nghĩa vụ bảo vệ môi trường.

Bảy là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩ vụ cơ bản của công dân như mở rộng chủ thể có quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử; trách nhiệm của Nhà nước trước công dân của nước mình, công dân không thể bị trục xuất, giao nộp cho nước khác, bảo vệ công dân Việt Nam ở nước ngoài… Đồng thời khắc phục cách diễn đạt thể hiện tư tưởng ban phát quyền cho con người bằng cách thay đổi cách diễn đạt và văn bản pháp lý, cụ thể như nhiều cụm từ “Nhà nước bảo đảm”, “Nhà nước tạo điều kiện”, “Nhà nước khuyến khích” đã được thay thế bằng “mọi người có quyền”, “công dân có quyền”. Hiến pháp cũng lược bỏ nhiều quy định về các cụm từ “theo quy định của pháp luật”, “theo quy định của luật” tránh cách hiểu và áp dụng tùy tiện, đồng thời thừa nhận khả năng có thể áp dụng trực tiếp các quy định của Hiến pháp.

Tám là, Hiến pháp năm 2013 quy định cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Theo đó tại khoản 2, Điều 119 quy định “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.” Tuy nhiên việc thành lập Hội đồng Hiến pháp theo ý tưởng của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp chưa được Hiến pháp quy định rõ, mà chỉ để ngỏ khả năng thành lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp “do luật định”.

Bên cạnh việc quy định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền công dân còn được quy định và bảo vệ trong các ngành luật khác như Luật Hành chính và Luật Tố tụng hành chính; Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự; Luật Dân sự và Luật Tố tụng dân sự; Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Đất đai; Luật Lao động; Luật Thương mại… và được quy định trong nhiều đạo luật chuyên biệt, bảo vệ quyền của nhóm xã hội như Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới; Luật Thanh niên; Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật; Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác… Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, thì việc hoàn thiện tất cả các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, Pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp là một việc làm hết sức cần thiết, Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Để ngày càng đảm bảo tốt hơn quyền con người thì việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân là một trong những giải pháp quan trọng trong quá trình thi hành nhiệm vụ ở tất cả các cấp, các ngành, chính quyền địa phương trong phạm vi cả nước.

Âu Phương Thảo

Khoa Nhà nước và pháp luật