• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XII VÀ NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 KHÓA XII CỦA ĐẢNG
Ngày xuất bản: 02/12/2020 12:05:00 CH
Lượt đọc: 19672

 

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp đất nước ta thoát khỏi thời kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng có lúc thuộc nhóm cao nhất thế giới. Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế Việt Nam để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Về khái niệm thể chế và thể chế kinh tế

Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thể chế. Khái niệm thể chế là một khái niệm rất rộng và có ý nghĩa cho mọi lĩnh vực, từ phạm vi tổng thể toàn nền kinh tế, toàn xã hội đến từng đơn vị kinh doanh, từ phạm vi chung của nền kinh tế thị trường đến từng lĩnh vực chuyên biệt như thị trường bất động sản, thị trường vốn,... cả quy tắc chính thức lẫn không chính thức. Có thể hiểu thể chế là sự vận hành đồng bộ của 3 bộ phận chính: các bộ quy tắc (pháp luật, quy định của xã hội, của một cộng đồng...); các tổ chức tham gia (cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng...); cơ chế thực thi quy tắc (các chính sách, cơ chế hỗ trợ, chế tài,...).

Từ khái niệm thể chế, có thể suy ra được nội dung của khái niệm thể chế kinh tế. Đó chính là những thể chế có liên quan đến các hoạt động kinh tế trong một phạm vi không gian và thời gian nào đó, ví dụ: thể chế thị trường lao động, thể chế thị trường bất động sản hay thể chế cho việc hình thành các doanh nghiệp,... Thể chế kinh tế là một khái niệm rất rộng, nó bao gồm nhiều thể chế thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm tác động đến những hoạt động kinh tế khác nhau trong xã hội. Hiểu đúng bản chất của thể chế kinh tế sẽ tìm ra được các rào cản của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội, cũng như nguồn gốc sản sinh ra các rào cản này, từ đó có được các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi nhằm khắc phục tối đa các rào cản, mở đường cho kinh tế - xã hội phát triển. Việt Nam đã và đang hội nhập sâu, rộng với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, mà đặc trưng là việc thực hiện rộng rãi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như với xu hướng toàn cầu hóa diễn ra ngày càng nhanh, thì trong những năm tới, việc hội nhập ngày càng sâu và rộng hơn nữa với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới đối với Việt Nam là một tất yếu. Nền kinh tế của Việt Nam muốn hội nhập thành công với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới, thì phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó vấn đề thể chế kinh tế điều đặc biệt quan trọng.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc điểm vừa giống lại vừa có những đặc thù khác với thể chế kinh tế thị trường nói chung. Kinh tế thị trường định hướng XHCN về cơ bản là hình thức tổ chức kinh tế trong đó toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng....đều được thực hiện trên thị trường, theo các quy luật, nguyên tắc của thị trường. Đặc thù ở đây là ở định hướng XHCN, thể hiện mục đích của sản xuất là để phục vụ con người nhằm mục tiêu xã hội dân chủ, công bằng, văn minh cho toàn thể Nhân dân, chứ không phục vụ một giai cấp nhất định. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là thể chế tồn tại trong điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện điểm xuất phát của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế còn thấp. Vì vậy cần một kiểu tổ chức kinh tế vừa hiệu quả nhằm tạo cơ sở vật chất cho phát triển xã hội vừa không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử kinh tế vừa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường.

Thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là tất yếu khách quan, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Nhân dân ta trong phát triển đất nước theo từng giai đoạn với những đòi hỏi khác nhau của lịch sử. Đó là nền kinh tế nuôi dưỡng và tạo điều kiện để các nhân tố mới của XHCN ngày càng phát triển, góp phần thực hiện cuộc cách mạng trong đổi mới kinh tế, đồng bộ với đổi mới chính trị, văn hóa, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, dần tạo bước nhảy toàn bộ đưa nước ta tiến lên CNXH.

Quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Từ trước ĐH Đảng VI, một số vấn đề thực tiễn đặt ra đã đưa đến những thay đổi trong chính sách kinh tế: đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định 25-CP ngày 21/1/1981 của Hội đồng chính phủ về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh… tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.

Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.

Quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII

Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc:

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của Chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.

Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X

Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật - của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:

Về mục đích phát triển: mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát khỏi nghèo và từng bước khá giả hơn”.

Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.

Những tiêu chí trên vừa thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011): Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm có 8 đặc trưng trong đó phản ánh nội dung cơ bản mà kinh tế thị trường cần phải hướng tới. Đó là nền kinh tế nhằm phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nền kinh tế đó vận hành trong xã hội “do Nhân dân làm chủ”. Để thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại, phát huy hiệu quả thì phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ phù hợp với trình độ của LLSX đem lại cho con người cuộc sống “ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, nền kinh tế ấy cũng tạo điều kiện cho văn hóa dân tộc tiếp tục giữ gìn, phát huy được bản sắc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, và nền kinh tế đó cũng phải có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới vừa phát huy nội lực bên trong, vừa tranh thủ điều kiện, nguồn lực từ bên ngoài.

Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””. Văn kiện Đại hội cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; Sử dụng các công cụ, chính sách, các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”.
Cách thể hiện như trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý  của Nhà nước pháp quyền XHCN; Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; Xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Trên tinh thần của Đại hội XII, nghị quyết Trung ương 5 Khóa XII tiếp tục nhấn mạnh cụ thể hóa hơn những quan điểm mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong ba nghị quyết chuyên đề có mối quan hệ hữu cơ với nhau: số 10, 11, 12: về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng  của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Là ba vấn đề mà thực tiễn đặt ra, khi có những tư duy đúng về các vấn đề này thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới thực sự phát huy hiệu quả. Một số những điểm mới trong ba Nghị quyết chuyên đề Hội nghị lần thứ 5 Ban Châp hành Trung ương đảng khóa XII như sau:

Nghị quyết số 10-NQ/TW về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”

Nghị quyết nêu rõ phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu tất yếu, khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”. Quan điểm mới này nhằm tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa rõ hơn nhận thức, tư duy nhất quán và liên tục phát triển của Đảng đối với phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết xác định: Phát triển kinh tế tư nhân là một phương sách quan trọng để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển và giải phóng sức sản xuất”  “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Quan điểm chỉ đạo, định hướng cho phát triển kinh tế tư nhân: Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong GDP. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng.

Nghị quyết xác định “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”

Về quan điểm chỉ đạo: Nghị quyết đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể hiện một tầm nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn và nội hàm, quy luật, bước đi, lộ trình của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN; quan điểm chỉ đạo cũng mạnh mẽ hơn, nhấn mạnh hơn yêu cầu hoàn thiện thể chế đối với đổi mới và phát triển kinh tế đất nước; xác định rõ hơn định hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay và xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.  

Về mục tiêu tổng quát là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020 và mục tiêu đến năm 2030 là: “Hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”.

Về nhiệm vụ, giải pháp: Thống nhất nhận thức: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết đề ra 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn với 44 giải pháp cụ thể; 5 nhiệm vụ cần tập trung chỉ đạo thực hiện.

Nghị quyết số 12-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”

Nghị quyết đã xác định: DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”.

DNNN giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; DNNN thực hiện vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết xác định quan điểm: Cơ cấu lại, đổi mới DNNN theo cơ chế thị trường là quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hoá, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém.

Về cổ phần hóa doanh nghiệp, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Nghị quyết số 12-NQ/TW có một số điểm mới để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn mà Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) chưa đề cập tới, như: (i) Giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; (ii) Đánh giá toàn diện thực trạng và phân loại các DNNN để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. (iii) Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp thì thực hiện cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản. Đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối thì cơ cấu lại bằng cơ chế, chính sách phù hợp. (iiii) Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng doanh nghiệp nhà nước, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.

Cùng với nghị quyết trung ương 4 khóa XII và nghị quyết Trung ương 5 khóa XII đã đưa ra những vấn đề cấp bách trong đó thể hiện nhiều điểm mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là vấn đề tồn tại lâu dài mà luôn cần phải đổi mới tư duy để có thể kết hợp đồng bộ và hài hòa hai mặt lớn của đời sống xã hội, có ý nghĩa cốt lõi trong việc ta có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hay không. Những quan điểm mà Đảng ta đưa ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và các hội nghị Ban Chấp hành trung ương đảng khóa XII đã thể hiện sự linh hoạt của Đảng ta trong vận dụng lý luận và phát triển lý luận để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy vật mácxit và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa ra.           

Nguyễn Thu Hương

Khoa Lý luận cơ sở