Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994) lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam “tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[1].
Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện về lý luận cũng như thực tiễn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành năm 2021 có nhiều nội dung phân tích, đánh giá, chỉ đạo quan trọng được đúc rút từ thực tiễn đổi mới, hội nhập mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, thể hiện đặc trưng, bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo...”. Đây được xem là cẩm nang quý báu cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới.
Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn cũng như vận dụng những quan điểm về nhà nước pháp quyền trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào giảng dạy tại Khoa Nhà nước và pháp luật của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái hiện nay là một yêu cầu cấp thiết đòi hỏi giảng viên phải làm rõ và vận dụng những nội dung sau:
- Thứ nhất, trong bài viết, Tổng Bí thư đã chỉ ra bản chất khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Chúng ta nhận thức rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với Nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Nhận định quan trọng trên của Tổng Bí thư có các ý nghĩa quan trọng nhấn mạnh việc phải nắm vững bản chất giai cấp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng: “Từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”.
Nhà nước pháp quyền hay còn gọi là Pháp quyền (the rule of law) là một phát hiện vĩ đại của nhân loại. Nhà nước pháp quyền là một phạm trù mang tính lịch sử, nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền không chỉ có đóng góp của các triết gia trước tư sản và tư sản, mà còn có sự đóng góp của những nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph.Ăgghen và VI.Lênin dù không chính thức nói đến nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong học thuyết của mình, nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói, họ đã thể hiện tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăgghen được thể hiện trong các tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, “Phê phán triết học pháp quyền Hegel”,v.v. C.Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật. Ông cho rằng “chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con nguời”[2]. Ph.Ăghen viết: “đối với chúng ta,… điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người cầm quyền và người bị lãnh đạo phải được thiết lập trên cở sở pháp luật”[3]. VI.Lênin tiếp thu, phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăgghen và đưa học thuyết của các ông đến mức độ hoàn bị hơn. Trong xây dựng Nhà nước Xô viết, VI.Lênin nhiều lần đòi hỏi bộ máy chính quyền “phải thật sự là của nhân dân lao động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật để đấu tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ”[4]. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội dù không xem nhà nước pháp quyền là bộ phận trong học thuyết của mình, nhưng trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy đã thể hiện quan điểm về những yếu tố pháp quyền, góp phần làm phong phú tư tưởng về nhà nước pháp quyền và đặt ra những ý tưởng mầm mống về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ trong các kiểu nhà nước khác nhau, với bản chất giai cấp khác nhau thì pháp quyền, mang tính giai cấp sâu sắc và khác nhau về bản chất. Cũng là đề cao pháp quyền (đề cao sự thượng tôn hiến pháp, pháp luật), nhưng trong nhà nước pháp quyền tư sản thì đó là đề cao hiến pháp và pháp luật, trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản bảo vệ quyền và lợi ích của riêng giai cấp tư sản. Ngược lại, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta, đề cao pháp quyền là đề cao Hiến pháp và pháp luật, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Chính vì thế, pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với pháp quyền tư sản, là pháp quyền phải trở thành “công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.
Thực tiễn lịch sử nhân loại minh chứng, nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hóa, tâm lý xã hội của mỗi dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa và môi trường địa lý. Vì thế, không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
- Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nước ta là nhà nước pháp quyền do một đảng - Đảng Cộng sản Việt Nam - lãnh đạo.
Ở các nước pháp quyền tư sản là nhà nước pháp quyền đa đảng. Vì thế, trong bài viết Tổng Bí thư đã nhấn mạnh phải “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Hiến pháp năm 2013 quy định. Đây có thể nói là đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta khác biệt với các nhà nước pháp quyền của các nhà nước tư sản trên thế giới.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu, đường lối, chiến lược cách mạng đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc và thời đại, cho nên Đảng được thừa nhận quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho quyền lợi của cả dân tộc, thể hiện được năng lực lãnh đạo và uy tín chính trị, có nhiều đảng viên của Đảng là những tấm gương, những tượng đài bất tử trong lòng nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới đất nước, sự lãnh đạo và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam càng được thử thách và khẳng định. Cũng từ đây Đảng ta thực sự trở thành Đảng cầm quyền đầy đủ và toàn vẹn nội hàm của nó với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, năng lực lãnh đạo, cầm quyền được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Bởi dù hoàn cảnh nhiều biến động phức tạp, nhiều khó khăn của tình hình trong nước và thế giới, nhưng Đảng vẫn kiên định mục tiêu cách mạng, giữ vững được tinh thần tự chủ, sáng tạo, lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước gặt hái được nhiều kết quả quan trọng: “kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên... Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố... Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” [5]. Đó là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Những thành quả to lớn đó càng cho thấy rằng, ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo Nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Lợi ích của Nhân dân luôn gắn với sự nghiệp của Đảng và lý tưởng, ý chí của Đảng cũng là nguyện vọng và mơ ước của Nhân dân. Thực chất cái “quyền” mà Đảng “cầm” là cái “quyền” của dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, hay nói cách khác “quyền” của Đảng là do Nhân dân giao phó để Đảng lo cho Nhân dân, dân tộc, đất nước, để xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, phải nắm vững đặc điểm này để một mặt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mặt khác không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực cầm quyền để Đảng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Thứ ba, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Trong bài viết Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và Dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”. Đây là những tư tưởng chỉ đạo quan trọng được đúc rút từ thực tiễn đổi mới, hội nhập mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, thể hiện hồn cốt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Có thể nói, vấn đề Nhà nước giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”[6]. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số Nhân dân những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Tiếp thu, kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình Nhà nước, quá trình nhận thức tư duy lý luận của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội, nhất là thời kỳ đổi mới, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, không ngừng được phát triển và hoàn thiện. Những quan điểm, đường lối đó được Nhà nước cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử có những thay đổi về mô hình bộ máy, tuy nhiên, xuyên suốt mạch phát triển ấy đều dựa trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước thuộc về Nhân dân, do Nhân dân xây dựng nên cho nên sẽ hướng tới phục vụ lợi ích của Nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong thời gian qua cũng đã và đang dần tiếp cận được những đặc trưng, yêu cầu, luôn đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Bằng chứng là quyền lực chính trị, quyền con người, lợi ích kinh tế, quan hệ xã hội, tư tưởng làm chủ của nhân dân đã được ghi trong các văn bản quan trọng nhất như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cũng được ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013…
Có thể nói, những phân tích, tổng kết, đánh giá sắc bén của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bài viết là những chỉ dẫn để giảng viên Khoa Nhà nước và pháp luật, Trường Chính trị tỉnh Yên Bái nghiên cứu để có nhận thức đúng đắn và kịp thời vận dụng những quan điểm về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào bài giảng để từ đó truyền cảm hứng và lan tỏa rộng rãi đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện những nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Đồng thời, là cơ sở phòng ngừa những tư tưởng chủ quan, nóng vội, áp dụng một cách máy móc các mô hình nhà nước pháp quyền của các nước khác vào Việt Nam; đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực tiễn xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./.
Ths.Nguyễn Thị Ngọc
Khoa Nhà nước và pháp luật, Trường Chính tỉnh Yên Bái
[1] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994
[2] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.350.
[3] Viện Nhà nước và pháp luật, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Tập I, Nxb Lý luận chính trị. 2000, tr. 118 – 119.
[4] Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tổng hợp TpHCM. 2006, tr. 164
[5] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, HN 2021, tr.77-78,
Tin khác