• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA QUẢN TRỊ TỐT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngày xuất bản: 09/12/2024 10:28:00 SA
Lượt đọc: 857

 

Quản trị nhà nước tốt, hay “quản trị tốt” (good governance) về bản chất không phải là một khái niệm mới hoàn toàn vì một số quan điểm về vấn đề này đã được đề cập bởi một số nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại. Ví dụ, Aristotle, trong Chính trị luận (Politics), thông qua việc phân tích đặc điểm, các nguyên tắc hoạt động của các dạng chế độ chính trị, cách thức tổ chức quốc gia và các mô hình dân chủ thực chất đã tạo lập những nền tảng lý luận về quản trị tốt. Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, khi mà khái niệm quản trị (governance) bị lấn át bởi khái niệm cai trị (government) thì vấn đề quản trị nhà nước tốt hầu như không được nhắc đến. Chỉ trong khoảng vài thập kỷ gần đây, cùng với khái niệm quản trị, khái niệm quản trị nhà nước tốt mới được đề cập đến ngày càng nhiều. Nguyên nhân được lý giải là bởi thực trạng quản trị kém (bad governance) mà các dấu hiệu đặc trưng là tình trạng tham nhũng, chính quyền thiếu trách nhiệm, vi phạm quyền con người ngày càng nghiêm trọng trên thế giới, dẫn đến nhu cầu cần tìm ra biện pháp khắc phục. Trong bối cảnh đó, quản trị nhà nước tốt trở thành một yếu tố quan trọng trong các chương trình nghị sự về chính trị và kinh tế cả ở cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia. Cùng với việc dân chủ hoá hệ thống chính trị, bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp, kiểm soát quyền lực nhà nước và dân chủ đại diện, quản trị nhà nước tốt đã trở thành một trong những yếu tố căn bản trong các nhà nước dân chủ.

Quản trị nhà nước tốt không phải là một phương thức hay mô hình tổ chức, hoạt động của một nhà nước hay một hệ thống chính trị, mà là các nguyên tắc định hướng cho việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị đó. Khái niệm quản trị nhà nước tốt khá rộng lớn, có thể nhìn nhận qua ba chiều cạnh chính đó là:

Về kinh tế (economic aspect): Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm thúc đẩy tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như tính hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực công.

Về xã hội (social aspect): Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm thúc đẩy sự bình đẳng và sự tham gia của người dâan vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Về chính trị (political aspect): Thể hiện ở các nguyên tắc nhằm tăng cường pháp quyền, thúc đẩy việc bảo vệ các quyền con người và trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước.

            Do tính chất rộng lớn của nó, việc bảo đảm tất cả các nguyên tắc của quản trị nhà nước tốt là không dễ dàng. Trong thực tế, hiện mới có rất ít quốc gia trên thế giới đạt được tất cả các tiêu chí của quản trị nhà nước tốt. Tuy nhiên, đây là một mục tiêu mà các quốc gia vẫn cần nỗ lực đạt được để phát triển bền vững.  

Hiện có những quan điểm rộng, hẹp khác nhau về nội hàm của quản trị tốt, tuy nhiên về cơ bản, quản trị tốt bao gồm các nguyên tắc chính, đó là:

Thứ nhất, huy động, bảo đảm sự tham gia của các chủ thể trong xã hội, nhất là người dân vào quản trị nhà nước. Đặc trưng tiêu biểu nhất của mô hình này là tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội đối với hoạt động của hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương. Các cá nhân, tổ chức trong xã hội có thể tham gia vào hoạt động của chính phủ (cụ thể, tham gia vào việc ban hành các quyết định hành chính, các chính sách, biện pháp hành động) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện hoặc các tổ chức hợp pháp.

Thứ hai, quản trị theo tinh thần nhà nước pháp quyền: quản trị nhà nước tốt đòi hỏi các quy định pháp luật không chỉ đầy đủ mà còn đảm bảo tính khách quan và công bằng. Pháp luật phải tạo thành khung pháp lý an toàn để bảo vệ quyền con người, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thiểu số, những đối tượng yếu thế. Đòi hỏi có hệ thống tòa án xét xử độc lập, nghiêm minh, công bằng và khách quan đối với các vi phạm pháp luật, không loại trừ bất cứ trường hợp nào.

Sau hơn 70 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện. Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đặc biệt sau khi tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường pháp lý cho việc hội nhập quốc tế. Hệ thống pháp luật nước ta ngày càng phát triển cân đối hơn trên phương diện cấu trúc và phương diện nguồn của pháp luật. Ở phương diện cấu trúc, các ngành luật được hình thành và phát triển ngày càng đồng đều, toàn diện hơn. Các chế định pháp luật ngày càng được phân hóa và cụ thể hơn. Các nguyên tắc pháp luật từng bước được xác định và thể hiện đầy đủ, rõ ràng hơn. Toàn bộ hệ thống pháp luật được phát triển theo những định hướng phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội - chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ở phương diện nguồn của pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo hướng cân đối hơn. Có thể nói, qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật nước ta đã có số lượng văn bản quy phạm pháp luật rất lớn. Số lượng văn bản này, một mặt thể hiện yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật của nước ta đang dần được thực hiện, nhưng mặt khác, lại làm phát sinh rất nhiều hệ lụy liên quan đến những nhược điểm, tồn tại của hệ thống pháp luật đó là:

Một là, tính thống nhất của hệ thống pháp luật không cao: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đa dạng về hình thức, đồ sộ về số lượng, không được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá khiến người dân rất khó tiếp cận, tìm hiểu và tuân thủ đúng yêu cầu của pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành nên mâu thuẫn và chổng chéo là khó tránh khỏi. Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính thống nhất, minh bạch của pháp luật, làm cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng và vì thể kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, nên việc hiểu để áp dụng và thực hiện pháp luật là chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân, doanh nghiệp mà còn đối với cả các chuyên gia pháp lý.

Hai là, đó là tính toàn diện, đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy có cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch lớn về số lượng văn bản và mức độ hoàn thiện của pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, còn một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa có luật điều chỉnh. Số lượng văn bản trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là pháp luật về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân còn chưa được hoàn thiện. Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực này như Luật về hội, Luật tiếp cận thông tin... mặc dù đã đưa vào chương trình và được soạn thảo nhiều năm nhưng vẫn chưa được ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường được sửa đổi chậm hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật về nội dung. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi. Nhiều nội dung trong các nghị quyết của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc phòng... chậm được thể chế hóa.

Ba là, tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế tài chính, ngân hàng... thường xuyên thay đổi. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật "tuổi thọ" ngắn, thậm chí, vừa ban hành đã phải đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho người thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ kinh tế- xã hội.

Bốn là, tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập: những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra. Một số văn bản hành chính lưu hành trong nội bộ các cơ quan nhà nước nhưng lại chứa quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành chung với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, làm giảm tính minh bạch, công khai của hệ thống pháp luật. Chưa có sự phân định rõ phạm vi, ranh giới giữa việc giải thích luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc ban hành văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền khác với việc Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Trong nhiều trường hợp, pháp luật được hiểu, được áp dụng chưa thống nhất, trong khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội hầu như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập chưa được coi trọng đúng mức; công tác nội luật hóa điều ước quốc tế chậm được tiến hành...Đây chính là những mặt còn tồn tại tác động đến khả năng quản trị nhà nước tốt theo tinh thần của nhà nước pháp quyền.

Ba là, tính công bằng, minh bạch: chính phủ quản trị tốt là chính phủ phục vụ công bằng, bình đẳng đối với mọi đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính… Tính minh bạch trong quản trị nhà nước tốt thể hiện ở việc các hoạt động của chính phủ phải liên tục được thông tin chính xác, kịp thời tới mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội một cách đầy đủ, dễ truy cập, dễ hiểu. Quyền được thông tin là quyền chính đáng của người dân.

Trong khoảng vài thập kỷ gần đây, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức quốc tế, các chính phủ và người dân của các quốc gia. Thúc đẩy sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là việc làm mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đang thực hiện và đã chứng tỏ tác dụng to lớn trong việc ngăn chặn tình trạng lạm quyền, quan liêu, tham nhũng cũng như tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia. Chính vì vậy, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước hiện đã trở thành một yêu cầu, điều kiện trong nhiều cơ chế và điều ước quốc tế, là một trong những “luật chơi chung” trong “sân chơi chung” của toàn cầu hóa. Một trong những ví dụ cụ thể đó là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình được đề cập như là một trong những biện pháp phòng ngừa cơ bản nhất trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên.Thực tiễn cho thấy, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước ở Việt Nam vẫn còn một số điểm, vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện để nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ mới và đặc biệt là trong công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đang quyết tâm thực hiện trong suốt thời gian qua. Ở Việt Nam, minh bạch bắt đầu được tiếp cận như một tiêu chí của quản trị nhà nước trong những năm gần đây. Hàng loạt văn bản đã ghi nhận và thể hiện yêu cầu minh bạch trong hoạt động của chính quyền, bao gồm Hiến pháp 2013, các luật chuyên ngành lớn như Luật Đất đai 2013; Luật Nhà ở năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2014; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.v.v. Đặc biệt, nỗ lực minh bạch hoá thể hiện đậm đặc nhất trong hai đạo luật là Luật Tiếp cận thông tin và Luật Phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định nghĩa vụ công khai của cơ quan, tổ chức nhà nước về các văn bản, các hoạt động của mình và nghĩa vụ minh bạch tài sản, thu nhập của một số cán bộ, công chức, đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn. Luật Tiếp cận thông tin được ban hành năm 2016 là bước tiến vượt bậc trong việc minh bạch hoá quan hệ giữa các cơ quan công quyền và người dân. Với đạo luật này, thông tin và hoạt động của chính quyền đã không còn nằm trong vòng bí mật và quyền tuỳ nghi công khai của cơ quan, đơn vị. Luật tiếp cận thông tin đã làm rõ những vấn đề mà người dân được thông tin, những hạn chế và cấm thông tin và đặc biệt là cơ chế, cách thức để thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, trong thực tiễn, tính minh bạch trong quản trị nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, hậu quả là tình trạng tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng. Mặt khác ở Việt Nam hiện nay còn thiếu vắng cơ chế giám sát và giải trình, dẫn đến những hạn chế trong việc thực thi chính sách, pháp luật trên thực tế. Đây chính là những thách thức khi áp dụng nguyên tắc công bằng, minh bạch.

Bốn là, thích ứng linh hoạt đối với sự thay đổi của môi trường quản trị: một chính phủ quản trị tốt là có thể đối mặt và giải quyết tốt mọi thay đổi. Những thay đổi đó có thể diễn ra bên trong hệ thống chính phủ của mỗi quốc gia, cũng có thể do sự tác động của môi trường quốc tế trước xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Sự thích ứng của chính phủ không chỉ thể hiện ở sự kịp thời, đúng đắn của các quy định pháp luật mà còn biểu hiện rõ nét ở sự sáng tạo, linh hoạt đưa ra các quyết định quản trị đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi và mong đợi của người dân.

Năm là, sự định hướng và đồng thuận: quản trị tốt phải chỉ ra được cách thức để tìm được sự đồng thuận của xã hội đối với chính phủ thông qua những hoạt động nhằm điều hòa lợi ích của công dân, của các tổ chức và của nhà nước, để thiết lập một xã hội đồng thuận và bảo đảm lợi ích của cả cộng đồng. Đồng thời, chính phủ cần quan tâm đến những chính sách mang tầm chiến lược để hướng tới sự phát triển bền vững, vừa giữ được ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế, vừa giữ gìn môi trường trong sạch cho thế hệ tương lai. Điều này đòi hỏi các nhà quản trị cần hiểu rõ những đặc trưng về lịch sử, văn hóa, con người, các nguồn lực của một xã hội hoặc của cộng đồng.

Đồng thuận xã hội là yếu tố thuộc bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chủ động tích lũy kinh nghiệm, lắng nghe các quan điểm, tư tưởng chính diện, phản diện trong các lực lượng cách mạng của quần chúng. Trên cơ sở đó, phân tích kỹ lưỡng, đề ra các giải pháp nhằm dần dần xóa bỏ những khác biệt, bất đồng, đối lập, đồng thời thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết gắn bó các tầng lớp nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng cùng nhau thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Đảng ta luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo ra sự đồng thuận, thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn xã hội. Ưu thế của Đảng ta trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội là chúng ta chỉ có duy nhất một đảng, đồng thời là đảng cầm quyền; chúng ta có lực lượng quần chúng nhân dân gắn bó máu thịt với Đảng qua các cuộc chiến tranh vệ quốc; nhân dân ta có truyền thống đoàn kết gắn bó với nhau. Đồng thuận xã hội tạo điều kiện quy tụ được lực lượng của toàn dân, để xây dựng cơ sở xã hội - chính trị vững chắc của Đảng. Mục tiêu và quan điểm cơ bản của Đảng ta là tăng cường đồng thuận xã hội, khắc phục những khác biệt, bất đồng để đi đến thống nhất tư tưởng và hành động, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp để đưa công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi, đồng thời chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả và đánh bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Với ý nghĩa đó, đồng thuận xã hội không phải là sách lược mà là một chiến lược của Đảng. Đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay phản ánh yêu cầu khách quan của việc xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thể hiện nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đồng thuận xã hội được thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam, bao gồm đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài.

Sáu là, trách nhiệm báo cáo và giải trình: đây là một yêu cầu thiết yếu đối với một chính phủ quản trị tốt. Các chủ thể ban hành và thực hiện quy định pháp luật, chính sách không chỉ có trách nhiệm giải trình đối với cơ quan cấp trên, đối với cơ quan dân cử mà còn có trách nhiệm giải trình đối với khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội, công chúng và các bên liên quan về các quy định của chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình phải đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và hệ thống các quy định pháp luật, chính sách đầy đủ, chính xác.

Hiện tại ở Việt Nam, pháp luật đã quy định hầu như tất cả các loại hình trách nhiệm giải trình, bao gồm: trách nhiệm giải trình của nhà nước, Trách nhiệm giải trình chính trị (trách nhiệm của mỗi tổ chức Đảng và mỗi đảng viên trước Đảng Cộng sản Việt Nam), trách nhiệm giải trình nghề nghiệp (các cán bộ, công chức, viên chức còn chịu sự ràng buộc của các quy tắc đạo đức nghề nghiệp), trách nhiệm giải trình xã hội (thể hiện qua những quy định về nghĩa vụ báo cáo trước nhân dân). Gần đây hơn, trong Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035, các tác giả cho rằng trách nhiệm giải trình là một điểm yếu nhất của Nhà nước Việt Nam. Chỉ số trọng lượng tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền ở Việt Nam vẫn nằm ở nhóm 10 quốc gia thấp nhất, và so với các quốc gia khác thì thứ hạng này từ năm 1996 tới nay lại có xu hướng giảm đi. Như vậy, trách nhiệm giải trình vẫn là một vấn đề cấp thiết ở nước ta mà để quản trị tốt nhà nước thì cần phải có những giải pháp để thúc đẩy.

Bảy là, hiệu lực và hiệu quả: quản trị tốt có nghĩa là kết quả của quá trình ban hành và thực hiện các quy định pháp luật, chính sách phải đảm bảo sự tuân thủ đối với các đối tượng chịu sự điều chỉnh. Đồng thời, kết quả đạt được phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Quản trị có hiệu lực, hiệu quả nghĩa là tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Ở Việt Nam, bộ máy nhà nước trong thời gian gần đây đã có những cải tiến lớn theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả. Công cuộc cải cách hành chính từ đã tiếp tục những thành tựu của thời kỳ trước với các nội dung: cải cách thể chế, cải cách bộ máy, cải cách thủ tục hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bộ máy nhà nước cũng được cải cách theo hướng tinh giản thu gọn đầu mối và định rõ hơn các cơ chế vận hành. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã nỗ lực đưa ra những quy định theo hướng phân cấp, phân quyền và trao nhiều hơn quyền lực cho địa phương. Chế độ trách nhiệm công vụ  trong những năm gần đây được hoàn thiện hơn, theo hướng tăng cường trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, để xây dựng nền quản trị nhà nước hiệu lực, hiệu quả ở nước ta, cần tiếp tục thúc đẩy các chương trình cải cách thể chế làm hành lang vận hành cho bộ máy quản trị và cho toàn xã hội. Cải cách thể chế cần được thực hiện từ gốc: các quy phạm pháp luật không chỉ được ban hành theo chiều từ trên xuống mà cần phải bắt đầu từ dưới lên – nghĩa là dựa vào nhu cầu thực sự của xã hội mà đặt ra chính sách. Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải thu hút sự tham gia, giám sát và phản biện thực chất và sâu rộng của công chúng và các tổ chức xã hội, đặc biệt là những đối tượng chịu sự tác động của văn bản. Bộ máy quản trị nhà nước cần được cải cách theo hướng phân định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, thiết chế; cơ chế giám sát và kỷ luật cần được tăng cường. Cơ chế trách nhiệm cần được thực thi nghiêm túc và toàn diện, bao gồm cả trách nhiệm hành chính; trách nhiệm chính trị, trách nhiệm nghề nghiệp.

Với những đặc trưng trên, có thể khẳng định quản trị tốt là một mô hình lý tưởng nhưng rất khó đảm bảo thực hiện một cách tuyệt đối với bất kỳ chính phủ nào. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, việc nghiên cứu và áp dụng mô hình này vào thực tiễn là một yêu cầu cần thiết đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay./

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.          PGS. TS Vũ Công Giao, TS. Nguyễn Văn Quân – Khoa Luật ĐHQG Hà Nội – Quản trị quốc gia trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII: Bước tiến mới và yêu cầu mới

2.          PGS. TS Vũ Công Giao, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội – Quản trị nhà nước tốt và việc áp dụng ở Việt Nam hiện nay

3.          Quản trị nhà nước tốt và việc áp dụng ở Việt Nam hiện nay. www. isis.gov.vn, ngày 12/8/2020.

4.     Phạm Thị Hồng Điệp, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội – Vận dụng mô hình “Quản trị nhà nước tốt” ở Việt Nam

Ths. Bùi Thị Bích Ngọc

Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật