Dân chủ và nhân quyền là những thành quả vĩ đại mà loài người đã đạt được trong đấu tranh chinh phục tự nhiên, đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội, thúc đẩy tiến bộ lịch sử. Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng mỗi bước tiến của dân chủ cũng đồng thời đánh dấu sự phát triển của nhân quyền. Tất cả các cuộc vận động xã hội lớn trong lịch sử, ở những thời điểm đấu tranh giai cấp quyết liệt, bùng nổ cách mạng xã hội hay cả những biến đổi từ trong lòng các xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng... dân chủ và nhân quyền đều là những giá trị nổi bật được xác định như mục tiêu, mục đích, thước đo của tiến bộ xã hội trong việc giải phóng xã hội và con người, đưa con người lên những thang bậc cao hơn, tiến đến tự do, phát triển và hoàn thiện. Dân chủ và nhân quyền vì thế được coi như một tiêu chí cơ bản, quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của các chế độ xã hội cao hơn hay thấp trong thang bậc phát triển của tiến bộ lịch sử.
Dân chủ là quyền cơ bản của con người. Đó là quyền của công dân, quyền này vừa là mục tiêu, vừa là động lực và là thước đo đánh giá về nhân quyền. Mặt khác, dân chủ còn là một chế độ chính trị, hình thức và là thiết chế của một loại hình nhà nước. Nghiên cứu lịch sử xã hội cho thấy, ở thời đại mông muội và dã man loài người chưa biết đến dân chủ. Khi xã hội phân chia thành các giai cấp, nhà nước xuất hiện và đến một giai đoạn phát triển khá cao của xã hội cổ đại, khái niệm dân chủ mới xuất hiện. Khái niệm dân chủ ở thời cổ đại Hy Lạp do hai từ nhân dân và quyền lực hay chính quyền cấu thành. Điều đó cho thấy, xét từ nguyên nghĩa, từ nguồn gốc, dân chủ có nghĩa quyền lực là của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng định nghĩa: Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ. Như vậy, dân chủ là khái niệm có tính lịch sử vì nó luôn có nội dung giai cấp, mang dấu ấn sâu sắc của cuộc đấu tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến lý luận và tư tưởng, ý thức hệ.
Giá trị của dân chủ, khi được biểu hiện thành các quyền con người và quyền công dân được pháp luật của các quốc gia ghi nhận và thực hiện trên thực tế là thước đo đánh giá sự phát triển của quyền con người trong tiến bộ của lịch sử và của các chế độ xã hội. Trong các chế độ dân chủ mà lịch sử đã trải qua, hệ thống pháp luật của các chế độ dân chủ, của các nhà nước đó đều hàm chứa những quan điểm pháp lý về quyền con người và các quan niệm tương ứng về các quyền, nghĩa vụ, tự do và dân chủ của con người và công dân. Trong mối liên hệ cơ bản giữa dân chủ và nhân quyền, ở những nét phổ quát, chung và phổ biến nhất đều thấy mức độ và tính chất phát triển của quyền con người và quyền công dân được quyết định, được chế ước bởi trình độ và tính chất phát triển của hệ thống pháp luật trong một nhà nước tương ứng.
Pháp luật của nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ không thể không có quyền con người, quyền công dân cũng như quyền con người, quyền công dân không thể thiếu và ở bên ngoài pháp luật của nhà nước dân chủ. 5 bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều khẳng định rất rõ điều này. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp năm 2013), ở Điều 14 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[1].
Hiến pháp năm 2013 có 11 chương, 120 điều; so với Hiến pháp năm 1992, giảm 1 chương, 27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều. Hiến pháp 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Mọi sửa đổi trong Hiến pháp đều hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế. Ngay từ Lời nói đầu, Hiến pháp đã thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa một cách trang trọng nhất, thể hiện tư tưởng lấy con người là trung tâm, Nhân dân là chủ thể đặc biệt trong Hiến pháp.
Việc hiến định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở chương II thay vì ở chương V như Hiến pháp năm 1992 không đơn thuần là một sự chuyển dịch cơ học, một sự hoán vị về bố cục mà là sự thay đổi về nhận thức; đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thế tối cao của quyền lập hiến thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta.
Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa quyền con người và quyền công dân. Nhằm đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân, khẳng định giá trị chung của nhân loại, bảo đảm hội nhập quốc tế, Hiến pháp đã bổ sung một số quyền mới, thể hiện sự nhận thức sâu sắc, toàn diện giá trị quyền con người của Nhà nước ta, như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21); quyền sở hữu tư nhân (Điều 32); quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc (Điều 42)...
“Chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp năm 2013. Toàn văn Hiến pháp năm 2013 cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) khẳng định chủ quyền nhân dân. Chương II, gồm 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ quyền nhân dân. Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục làm rõ hơn các nội dung, quan điểm về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người; phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam kí kết. Để đảm bảo thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của nhân dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, không chỉ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (như trong Hiến pháp năm 1992) mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6).
Hiến pháp năm 2013 có tới 15 điều ghi nhận mọi người, công dân có quyền lao động, có việc làm, phúc lợi và an sinh xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; đồng thời khẳng định vai trò của Nhà nước trong kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với việc thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội; tạo môi trường và điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội nhằm đảm bảo công bằng, vì lợi ích của nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 tiếp cận căn bản các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, thậm chí có một số nội dung tiến bộ hơn so với tiêu chuẩn quốc tế như nghĩa vụ của Nhà nước về quyền con người. Quyền con người không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác. Bên cạnh các điều, khoản cụ thể quy định về quyền con người, quyền công dân; nghĩa vụ của nhà nước trong đảm bảo quyền công dân, các chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đều có chế định bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Viện Kiểm sát có trách nhiệm bảo vệ quyền công tố, quyền con người; Tòa án có trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền công dân. Như vậy, bộ máy Nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện những công ước quốc tế, trong đó có những công ước liên quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Theo luật pháp quốc tế về nhân quyền, nghĩa vụ của nhà nước trong thực hiện quyền con người được thể hiện ở 3 cấp độ là “tôn trọng, bảo vệ, thực hiện”. Vượt lên trên cả 3 cấp độ đó, Hiến pháp năm 2013 quy định nghĩa vụ của Nhà nước trong thực hiện quyền con người là “tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm” là bao trùm nhất, là rất tiến bộ so với tiêu chuẩn quốc tế.
Ths.Tạ Thị Hảo - GV Khoa Xây dựng Đảng
Tin khác