Có thể hiểu “toàn cầu hóa là một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hóa đến môi trường…) giữa các quốc gia”[1]. Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định “Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”[2].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ chuyên môn, khoa học. Đồng thời, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá trị lý luận tinh hoa của nhân loại, trên cơ sở đó tiếp tục phát huy những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin trong xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước. Tận dụng xu thế hội nhập mạnh mẽ thông tin từ quá trình toàn cầu hóa, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh tuyên truyền quan điểm sai trái, nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phê phán, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực... Thông qua các hội thảo khoa học, diễn đàn quốc tế, diễn đàn trên mạng xã hội, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền về chủ nghĩa thực dụng, dân chủ, văn hóa phương Tây, tâm lý hưởng thụ nhằm từng bước chuyển hóa tư tưởng, quan điểm và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân; chúng phát tán tài liệu xuyên tạc, bóp méo các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng tăng cường lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, triệt để sử dụng internet và mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam.
Như vậy, bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đã đem lại những thời cơ, đồng thời cũng làm xuất hiện cả những thách thức, nguy cơ thực sự đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặt ra đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận nói chung trong đó có công tác nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH). Nghiên cứu CNXHKH trong bối cảnh mới, không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lý luận của CNXHKH mà còn giúp chúng ta ứng dụng lý luận đó vào thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện mới. Mục tiêu của nghiên cứu CNXHKH trong bối cảnh toàn cầu hóa là nhằm xây dựng một lý luận khoa học, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện CNXHKH, chúng ta sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, phản bác đấu tranh các quan điểm sai trái thù địch, đồng thời cung cấp những cơ sở khoa học cho việc cụ thể hóa và phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng xây dựng một xã hội Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển vào năm 2045.
Để nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Công tác nghiên cứu CNXHKH trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay phải chú ý những vấn đề sau:
Một là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với công tác nghiên cứu lý luận, đặc biệt công tác nghiên cứu lý luận CNXHKH
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo công tác nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trong thời gian tới, công tác nghiên cứu lý luận cần chủ động, sáng tạo hơn. Khi xác định được hệ thống các vấn đề cần nghiên cứu, nên lựa chọn các tổ chức, cá nhân có uy tín, năng lực để giao. Đồng thời, cần đổi mới cơ chế quản lý về thầu, khoán, cơ chế nghiệm thu đề tài... bảo đảm tính khoa học, dân chủ, khách quan. Cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên việc tìm tòi, sáng tạo trong xác định đề tài nghiên cứu, mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận thông qua các hình thức khen thưởng, xác định mức kinh phí thực hiện đề tài, tổ chức hội thảo, các chương trình hợp tác, nghiên cứu..
Kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận vừa có bản lĩnh chính trị, vừa có năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đa số cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận được đào tạo bài bản, chuyên sâu. Tuy nhiên, hiện nay, các chuyên gia đầu ngành đã lớn tuổi, xu hướng trẻ hóa diễn ra ngày càng nhanh. Do đó, cần xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận từ công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đặc biệt là có cơ chế, chính sách để họ phát huy tối đa trí tuệ, nhiệt huyết vào nhiệm vụ và chịu trách nhiệm đối với sản phẩm khoa học của mình.
Hai là: công tác nghiên cứu lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, để chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Việc bổ sung những tri thức nhân loại góp phần sáng tỏ thêm quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhưng cũng cần chú ý tránh xa rời, từ bỏ những nguyên tắc cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là 3 phát minh vĩ đại, đó là: Tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người (chủ nghĩa duy vật lịch sử); tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra - quy luật giá trị thặng dư; tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Ba là: tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu lên hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ quá độ dài hay ngắn tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, cách thức, biện pháp đi lên xây dựng chế độ mới của từng quốc gia - dân tộc. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng ta luôn bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đổi mới chúng ta còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành động, muốn đốt cháy giai đoạn. Sau đổi mới, cùng với nhận thức đúng đắn hơn, chúng ta hiểu rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá nên càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”[3]. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. Tuy nhiên nhiều vấn đề về thời kỳ quá độ vẫn còn cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ, như việc xác định chúng ta đang trong giai đoạn nào của thời kỳ quá độ, thời kỳ này sẽ kéo dài bao lâu, những biện pháp cụ thể để rút ngắn thời kỳ này? Sẽ còn là vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu để có câu trả lời thấu đáo.
Bốn là: tiếp tục khẳng định vai trò của đội ngũ công nhân trong điều kiện mới.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, con người là nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Khi nghiên cứu về xã hội loài người, C.Mác khẳng định mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển nhảy vọt so với trước kia. Sự phát triển đó cung cấp thêm cho chúng ta những chứng cứ thực tiễn thuyết phục để tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của C.Mác về lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C.Mác về vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt là đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, việc áp dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh là động lực để công nhân từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp. Cùng với đó, việc rèn luyện, nâng cao tác phong và kỷ luật lao động của công nhân theo hướng hiện đại cũng được chú trọng, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Ngày nay, “chúng ta đang sống trong điều kiện có nhiều cái mới, rất khác so với thời kỳ của C.Mác. Khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến”[4], tuy nhiên vai trò của lực lượng sản xuất hàng đầu là người công nhân là không thể phủ nhận, giữ vai trò quan trọng trong quá trình làm ra của cải vật chất cho xã hội. Việc tiếp tục nghiên cứu Nghiên cứu có phê phán, chọn lọc những tri thức mới của nhân loại trong việc xây dựng phát triển lực lượng sản xuất, tiếp tục khẳng định vai trò của đội ngũ công nhân trong điều kiện mới.
Như vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc nghiên cứu về Chủ nghĩa xã hội khoa học cần phải kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời điều chỉnh, bổ sung những tri thức của nhân loại để đáp ứng những thách thức mới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, đây nhiệm vụ rất quan trọng của những người làm công tác nghiên cứu chủ nghĩa Mác nói riêng và của cả hệ thống chính trị của nước ta nói chung, để sức sống của chủ nghĩa Mác Lênin luôn trường tồn cùng thời đại.
Th.s Nguyễn Tuấn Phong
Giảng viên khoa Lý luận cơ sở
[1] Nguyễn Quốc Trường (2023): “Nhận diện toàn cầu hóa và những cơ hội, thách thức đặt ra với Việt Nam” Truy cập từ https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM263681
[2] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2022, tr.37.
[3] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.2022, tr.25.
Tin khác