• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
CHIẾN CÔNG CỦA QUÂN VÀ DÂN YÊN BÁI TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ (7/5/1954)
Ngày xuất bản: 04/05/2019 9:06:00 SA
Lượt đọc: 22693

           Ngày 7/5/1954 đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam và thế giới với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới, tạo ra bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây cũng là sự kiện quan trọng ghi dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cùng với cả nước, quân và dân Yên Bái  có nhiều đóng góp cho chiến trường Điện Biên Phủ. 

Nằm ở cửa ngõ chiến trường Tây Bắc, Yên Bái có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về mặt quân sự, là khu đệm giữa hậu phương với mặt trận Điện Biên Phủ. Sau chiến dịch giải phóng Nghĩa Lộ (10-1952), Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 -1954, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Yên Bái được giao nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng vinh quang là mở đường Từ Hiên (Tuyên Quang) đi Ba Khe; mở đường 13A nối Ba Khe với đường 41 (ngã ba Cò Nòi - Sơn La), tổng chiều dài 188 km. Từ tháng 4-1953, theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu, các đơn vị công binh cùng dân công Yên Bái đã khởi công mở đường cho xe ra tiền tuyến.

Kể về những ngày sục sôi mở đường, ông Hà Hữu Phúc, 82 tuổi ở thôn 4, xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn - một trong những dân công tham gia mở đường thời bấy giờ nhớ lại: Các cung đường ngày đó vui như trảy hội. Trai, gái, già, trẻ nô nức thi đua mở đường, sửa đường. Mở đường rất khó khăn, vất vả vì núi cao, rừng rậm, khó định hướng. Khó nhất là đoạn đèo Lũng Lô, do núi đá cao nên nhiều đoạn phải đu dây để đục lỗ, nổ mìn phá đá. Vất vả và nguy hiểm là vậy nhưng ai cũng quyết tâm làm cho bằng được, tất cả vì tiền tuyến, vì Điện Biên Phủ.

Tỉnh ủy Yên Bái quyết định thành lập Công trường 13, dân công từ các huyện Văn Bàn, Trấn Yên, Lục Yên, Văn Chấn... được tập hợp về phiên chế thành các tiểu đội, trung đội trên cơ sở của thôn, bản, xã. Ngày đêm xẻ núi, phá đá, bắc cầu, chống lún sạt, chống biệt kích và máy bay địch đánh phá, lực lượng công binh và dân công trong thời gian ngắn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, mở thông đường từ chiến khu Việt Bắc tới mặt trận Điện Biên Phủ. Để hoàn thành nhiệm vụ này, tỉnh Yên Bái đã huy động 124.458 lượt người làm đường; 173.197 công đào, đắp, san lấp hố bom, chống lún sạt; làm mới và sửa chữa 188 km đường huyết mạch của chiến trường. Nhờ đó, hàng vạn lượt ô tô, đại bác, xe đạp thồ chở hàng, vũ khí tiếp ứng đầy đủ kịp thời cho mặt trận.

Tháng 2-1954, thực dân Pháp tập trung lực lượng không quân đánh phá ác liệt các tuyến đường lên Tây Bắc, hòng cản sự tiếp viện của hậu phương ra chiến trường. Đường 13A là mạch máu giao thông chính nối liền căn cứ địa Việt Bắc với chiến trường nên địch đã tập trung đánh phá rất ác liệt. Từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954, trên đoạn đường từ Yên Bái đến giáp Sơn La, địch đã ném hơn 11.700 quả bom các loại, tập trung đánh phá ác liệt vào bến phà Âu Lâu và đèo Lũng Lô. Hơn 200 ngày đêm trên tuyến đường này không lúc nào im tiếng bom đạn giặc. Dân công, bộ đội địa phương Yên Bái đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, chuyển được hàng vạn tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí từ căn cứ địa Việt Bắc lên mặt trận Điện Biên Phủ một cách an toàn, kịp thời. 

Với tinh thần "Quyết chiến, quyết thắng" của quân và dân trên từng công trường tốc độ vận tải lên chiến trường từ 3 km/giờ được nâng lên 13 km/giờ; từ 8 đến 9 xe qua bến phà Âu Lâu trên sông Hồng lên 90 xe qua sông; giảm thời gian vượt sông của phà từ 30 phút xuống còn 15 phút tại các tọa độ lửa như bến Âu Lâu, Ngòi Lâu, Ngòi Mười. Mặc cho bom rơi, đạn nổ, pháo sáng, nhân dân các xã ven sông Hồng thuộc huyện Trấn Yên, Văn Bàn và xã Nguyễn Phúc (ngày nay là Trấn Yên, Văn Yên và Thành phố Yên Bái) đã đóng hàng trăm thuyền, bè, mảng vận chuyển huy động 2.700 ngày công và 650 xe đạp thồ cho chiến dịch.

Thi đua với dân công mở đường, các chiến sĩ quân giới công binh xưởng Vĩnh Kiên (Yên Bình), Kiên Thành (Trấn Yên) đẩy mạnh sản xuất vũ khí, cuốc, xẻng... phục vụ mặt trận. Những lò nấu gang, thép, xưởng thợ làm việc liên tục ba ca trong ngày, sản xuất lưỡi lê, lựu đạn góp phần tiêu diệt địch.

Là hậu phương lớn trực tiếp của mặt trận, mới được giải phóng cuối năm 1952, nhưng với quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch lương thực, thực phẩm nuôi quân, đồng bào Tày ở Đại Lịch, Thượng Bằng La (Văn Chấn), đồng bào Thái ở Mường Lò, dù mới thu hoạch vụ mùa đầu tiên đã đóng góp hơn 500 tấn thóc. ở vùng tự do cũ như Yên Bình, Lục Yên, xã Nguyễn Phúc... ngày giao lương trở thành ngày hội; từ các xã vùng cao đến vùng thấp, lương thực được chuyển về các kho cung cấp kịp thời cho tiền phương. Trong chiến dịch lớn của dân tộc, đồng bào các dân tộc Yên Bái được giao xay giã 1.578 tấn thóc; đã xuất hiện hàng nghìn cối giã nước ở các xã Hồng Ca, Thượng Bằng La, Tân Thịnh... giã gạo ngày đêm phục vụ bộ đội ăn no đánh thắng. Bằng cách động viên thích hợp, tỉnh Yên Bái đã cung cấp cho mặt trận 1.880 tấn gạo; 1.372 con trâu, bò; 489 con lợn thịt; hơn 2.700 kg đỗ, đậu, lạc.

Không chỉ mở đường, cung cấp lương thực, thực phẩm và vũ khí thô sơ, quân và dân Yên Bái còn trực tiếp tham gia chiến dịch. Hướng về tiền tuyến, thanh niên trong tỉnh nô nức lên đường tòng quân. Trong chiến dịch này, Yên Bái huy động 31.652 lượt dân công; trung bình cứ bốn người dân có một người đi phục vụ chiến dịch.

Từ khí thế ấy, quyết tâm ấy xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân luôn đạt năng suất trên 300%. Nhiều tấm gương lao động quên mình như: Hà Văn Đoàn, Vũ Ngọc Quỳnh và các đội dân công xã Bái Dương, Hưng Khánh đã trở thành niềm cổ vũ to lớn cho toàn công trường, góp phần hoàn thành con đường chiến dịch trước thời gian một tháng, tiết kiệm được gần 42 nghìn ngày công, bảo đảm cho xe ô tô có thể chạy được giữa căn cứ Việt Bắc với Tây Bắc.

Trong phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn tỉnh Yên Bái có 52 dân công hy sinh, 46 dân công bị thương; tổng kết chiến dịch, quân và dân tỉnh Yên Bái được Trung ương tặng thưởng Huân chương Chiến công cho hai tập thể và ba cá nhân; Hội đồng cung cấp Trung ương tặng cờ thưởng luân lưu và 15 bằng khen của Liên khu.

Có thể khẳng định, những đóng góp to lớn của quân và dân các dân tộc tỉnh Yên Bái với chiến dịch Điện Biên Phủ là rất quan trọng. Nhờ con đường huyết mạch nối từ Việt Bắc qua Yên Bái ra mặt trận nên sự cơ động của pháo binh, xe tải, xe thồ được linh hoạt; những cân gạo, thực phẩm được đồng bào các dân tộc trong vùng cung ứng tại chỗ kịp thời vô điều kiện, giúp cho quân ta ăn no đánh thắng. Đó vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm và mồ hôi, xương máu của đồng bào các dân tộc Yên Bái đối với Đảng, với quân đội trong thời kỳ gian khó.

Hướng tới kỉ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phát huy truyền thống của quê hương, bước vào giai đoạn cách mạng mới, Đảng bộ và nhân dân Yên Bái tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển, kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các mục tiêu tiến bộ xã hội. Cùng với đó, việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, tập trung xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh toàn diện cũng được tỉnh đặc biệt quan tâm, ra sức phát triển kinh tế để tạo ra tiềm lực cho quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân, tạo môi trường ổn định, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu xây dựng Yên Bái trở thành Tỉnh phát triển khá trong vùng trung du miền núi phía Bắc.

 

Thạc sĩ: Hà Minh Hoàn

                                                         Phó trưởng Khoa Xây dựng Đảng