• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - 75 năm vẫn vẹn nguyên giá trị
Ngày xuất bản: 14/12/2021 9:30:00 CH
Lượt đọc: 11687

 

Cách đây 75 năm, để bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946). Lời kêu gọi thiêng liêng của Người như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Hơn bảy thập kỷ đã qua nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng đó vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam hôm nay, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, đất nước ta lúc bấy giờ đứng trước hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài. Phía Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, đi cùng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu "Diệt Cộng, cầm Hồ". Phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là muốn cướp nước ta lần nữa...Trong nước, giặc đói đã làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, hơn 95% dân số nước ta lúc đó mù chữ.

Đứng trước dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với toàn Đảng đã đưa ra nhiều kế sách nhằm hòa hoãn với Tưởng và sau đó là Pháp để xây dựng và củng cố lực lượng như: ký với thực dân Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Nhưng với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, cuối tháng 11-1946, quân Pháp đánh chiếm Hà Nội, Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và Đà Nẵng. Ngày 18-12-1946, tướng Louis Morlière gửi cho Chính phủ Việt Nam tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, giải tán lực lượng tự vệ, bàn giao quyền kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Quân Pháp đe dọa, nếu các yêu cầu trên không được thực hiện, chậm nhất sáng 20-12-1946, quân Pháp sẽ hành động. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Để hiệu triệu toàn dân đứng lên chống Pháp và để có đường lối chung chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Vào 20 giờ ngày 19- 12-1946, tiếng đại bác từ pháo đài Láng hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến được phát ra, cuộc kháng chiến chống xâm lược bùng nổ trên phạm vi cả nước. Sáng sớm ngày 20-12-1946, qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi cả nước với quyết tâm cao độ là đánh thắng giặc Pháp xâm lược, bảo vệ tổ quốc.

Toàn văn Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vẻn vẹn 197 từ nhưng có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng, bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; là mệnh lệnh tiến công cách mạng, tạo khí thế để Nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Ra đời trong thời khắc cam go của lịch sử, hịch cứu nước của Hồ Chí Minh đã chạm tới điều sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam, đó là lòng yêu nước và khát vọng tự do, đã thổi bùng lên ngọn lửa chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Sự kiện toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã thể hiện nghệ thuật khởi đầu chiến tranh của Hồ Chí Minh. Người luôn cho rằng, chiến tranh chỉ nên bắt đầu khi không thể tiếp tục nhân nhượng được nữa và khi công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành. Nếu chiến tranh nhất thiết phải xảy ra thì nên chủ động bắt đầu nó để tránh rơi vào thế bị động, dẫn đến hoang mang trong dân chúng. Và thực sự, khởi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra đúng như vậy. Trong hoàn cảnh bị dồn vào thế phải làm nô lệ, cũng như công tác chuẩn bị cũng cơ bản hoàn thành, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến bị động thành chủ động. Sự chủ động, quyết đoán đã mang lại sự thuận lợi về cả tâm lý cũng như hành động tác chiến, đã làm tiêu tan mưu đồ đánh úp của quân Pháp, làm cho quân Pháp từ thế chủ động thành bị động, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng. Sự quả cảm, bình tĩnh, mưu lược trước âm mưu thâm độc và sức mạnh của kẻ thù đã thể hiện bản lĩnh cầm lái của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm tháng trôi qua nhưng các thế hệ người Việt đều tìm thấy trong âm hưởng hào hùng của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến một trang sử hào hùng của dân tộc cũng như những kinh nghiệm quý báu, những phương châm hành động đúng đắn để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Trước hết, những quan điểm đúng đắn về mô hình chiến tranh nhân dân trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có giá trị vận dụng sâu sắc. Quan điểm “toàn dân kháng chiến” giúp Đảng ta chủ động phát huy mọi lực lượng trong dân để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm “toàn diện kháng chiến” giúp Đảng ta quan tâm phát triển mọi mặt của đất nước. Quan điểm “trường kỳ kháng chiến” giúp chúng ta không nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm “tự lực cánh sinh” là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối chủ động phát huy nội lực, kết hợp chặt chẽ nội lực và ngoại lực trên tinh thần lấy nội lực làm nền tảng để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn chứa đựng những chân lý của cuộc sống, những quy luật của cách mạng nên luôn có sức sống trường tồn như thế.

Thứ haiLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh gợi mở những giải pháp quý báu để giải quyết những khó khăn của đất nước. Cùng với xu thế phát triển của nhân loại thì đất nước ta cũng đã có nhiều biến đổi tích cực, tuy nhiên, trong sự phát triển của đất nước vẫn tồn tại không ít khó khăn khi sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng mạnh mẽ và tinh vi, khi chủ quyền dân tộc ở biển Đông vẫn bị đe dọa và không thể giải quyết một sớm một chiều, khi nội bộ xã hội chứa đựng nhiều tệ nạn nghiêm trọng... Để hóa giải những khó khăn đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã gợi mở cho Đảng những giải pháp hết sức quan trọng, đó là: phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết và sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, điều đã được kiểm nghiệm trong hàng ngàn năm lịch sử mà thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là một ví dụ điển hình.

Thứ ba, lời thề thiêng liêng “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh luôn có giá trị cảnh báo vì sự nô dịch, xâm lược ngày nay đã mang những sắc thái mới. Đó là sự nô dịch văn hóa dưới chiêu bài “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “hội nhập toàn diện, triệt để”. Đó là sự xâm lấn kinh tế với phương châm “thua trên chiến trường, thắng trên thị trường”, “thua trong chiến tranh, thắng trong hòa bình”, “thỏa thuận về biên giới cứng, mở rộng về biên giới mềm”…Vì vậy, trong hợp tác kinh tế, ta luôn phải hết sức thận trọng tránh sự mất độc lập về kinh tế dẫn đến mất độc lập về chính trị, trong giao lưu văn hóa tránh sự vong bản bởi mất văn hóa là mất tất cả. Văn kiện Đại hội XIII xác định rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.” như là lời khẳng định lại lời thề thiêng liêng trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh.

Thứ tưLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh là bài học quý về vai trò lãnh đạo của Đảng. Khi vận mệnh dân tộc “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của Nhân dân vì Nhân dân tìm thấy ở Người và những cộng sự của Người sự hội tụ những phẩm chất cao cả “nhân, trí, dũng, liêm, trung”. Ngày nay, ngọn lửa yêu nước vẫn âm ỉ trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng có thổi bùng được ngọn lửa ấy lên hay không còn phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của Đảng. Nếu Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân dân, biết lựa dòng lịch sử trên cơ sở nắm chắc diễn tiến tình hình trong nước và thế giới, dám nghĩ, dám làm thì Đảng sẽ tạo nên vận nước, sẽ đưa dân tộc ta sánh vai với những cường quốc năm châu như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Có thể thấy, 75 năm đã trôi qua (19-12-1945 đến 19-12-2021), lịch sử dân tộc đã sang trang, nhưng âm hưởng, tầm vóc, ý nghĩa và bài học lớn lao của lời hịch phát động cuộc kháng chiến toàn quốc của Bác năm nào đã và đang cổ vũ cả dân tộc ta. Những người con Việt Nam luôn nguyện làm hết sức mình, nguyện đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải vì những điều thiêng liêng vô giá. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân./.

 

Đồng Thị Thùy Trang

                                      Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng