• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
Chủ đề tọa đàm CLB giảng viên trẻ - tháng 5/2016: Vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học vào các bộ môn giảng dạy tại Trường Chính trị tỉnh Yên Bái
Ngày xuất bản: 22/06/2017 9:45:00 SA
Lượt đọc: 30336

Trong nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn khoa học nói chung và nghiên cứu cũng như giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị nói riêng, thì trước hết cần phải trả lời cho câu hỏi: Mỗi một bộ môn khoa học đó có ý nghĩa và vai trò gì đối với nhận thức và hiện thực? Mối quan hệ giữa môn khoa học đó với các môn khoa học khác là như thế nào? Tại sao mỗi một bộ môn khoa học tuy là một ngành độc lập nhưng lại không thể tách rời các môn khoa học thuộc các lĩnh vực khác? Điều gì gắn kết các môn khoa học với  nhau? Những câu trả lời cho các câu hỏi kể trên, chúng ta có thể tìm thấy khi nghiên cứu triết học - môn khoa học với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, phương pháp luận cho con người trong công cuộc chinh phục thế giới và cải tạo chính bản thân con người.

1. Tại sao cần trang bị thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật

Lần ngược lại lịch sử ra đời của khoa học, ta sẽ thấy triết học là môn khoa học cổ xưa nhất và triết học ra đời do nhu cầu của thực tiễn. Lịch sử phát triển của triết học cũng song hành với lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại về mọi lĩnh vực, trong cả Tự nhiên và xã hội.

Tuy nhiên, khi triết học còn chưa hoàn thiện, với tư cách là khoa học trang bị cho con người cách nhìn nhận đánh giá sự vật và phương pháp để cải tạo sự vật thì nhiều thế kỷ trước khi triết học Mác – Lênin ra đời, triết học vẫn chưa làm đúng vai trò là “cơ sở khoa học cho nhận thức và cải tạo hiện thực”. Chỉ khi triết học Mác – Lênin xuất hiện (là triết học ra đời do đòi hỏi của thực tiễn thế kỷ XIX và sau này được Lênin kế thừa và phát triển vào đầu thế kỷ XX) thì triết học đã thực hiện đúng vai trò của mình. Với thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật,  triết học Mác – Lênin đã tham gia vào công cuộc cải tạo mạnh mẽ thế giới, tư duy của con người, và toàn thể xã hội loài người. Đảng ta nhận định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư  tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,  Nxb. Chính trị Quốc gia,   H. 2016, tr. 7).

Như vậy, có thể khẳng định Triết học Mác – Lênin đã cung cấp cho con người công cụ để nhận thức và cải tạo hiện thực, hay nói cách khác, trang bị cho con người thế giới quan và phương pháp luận khoa học là: Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật. Mỗi con người nói chung, hay mỗi giảng viên nói riêng đều cần phải trang bị cho mình “công cụ”  này, để nhận thức đúng, hành động đúng và quan trọng hơn  là góp phần tuyên truyền làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh phổ biến sâu rộng, đóng vai trò chủ đạo trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, thâm nhập thực tiễn và chỉ đạo thực tiễncó hiệu quả.

2. Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật là gì?

Thế giới quan là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, nghĩa là triết học quan niệm về thế giới bằng hệ thống lý luận của mình. Thế giới quan triết học có chức năngđịnh hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là, trên cơ sở quan niệm triết học về thế giới này mà con người sẽ định hướng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Chẳng hạn, nếu một người có quan niệm duy vật về thế giới thì trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ hành động theo tinh thần duy vật. Ngược lại, nếu anh ta có thế giới quan duy tâm thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ thực hiện theo tinh thần duy tâm. Trong triết học có hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.

Cùng với chức năng thế giới quan, triết học còn có chức năng phương pháp luận. Phương pháp là những nguyên tắc, cách thức thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích đã đặt ra. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, nguyên tắc xác định phương pháp, phạm vi ứng dụng phương pháp, v.v. cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chức năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho chủ thể phương pháp xem xét, nhận thức và cải tạo thế giới.

Trong triết học có hai phương pháp đối lập nhau là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, vận động, biến đổi, phát triển. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, bất biến, đứng im. Trong chủ nghĩa duy vật mácxít có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Thế giới quan trong chủ nghĩa duy vật mác xít là thế giới quan duy vật biện chứng, còn phương pháp biện chứng là phương pháp biện chứng duy vật.

3. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật vào giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị ở trường Chính trị tỉnh Yên Bái.

Trước hết mỗi giảng viên cần trang bị cho mình thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật để tự mình nhận thức về các sự vật, hiện tượng và có thể tự đề ra biện pháp để nâng cao năng lực xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng và có phương hướng hành động để giải quyết các nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra.

Đối với nhiệm vụ giảng dạy, mỗi giảng viên phải thấy được mối quan hệ hữu cơ của các bộ môn lý luận chính trị và đặc biệt phải nhận thức được vai trò đặc thù của triết học đối với các bộ môn khác, đó là vai trò thế giới quan và phương pháp luận. Thế giới quan ở đây phải là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận phải là phương pháp luận biện chứng duy vật. Vì thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật là thế giới quan và phương pháp luận khoa học đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, phản ánh đúng hiện thực khách quan, mang tính khoa học và tính cách mạng, là cơ sở khoa học cho nhận thức và cải tạo hiện thực.

Để có thể vận dụng tốt thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật vào giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị trong chương trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính thì mỗi giảng viên cần nắm được các nguyên tắc cơ bản sau:

* Quan điểm khách quan:

•         Trong hoạt động nhận thức cũng như cải tạo thực tiễn bao giờ cũng phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh thực tế.

•         Phải luôn tôn trọng các quy luật khách quan.

•         Nhận thức cải tạo sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật.

•         Chống chủ nghĩa chủ quan.

•         Phát huy tính năng động chủ quan.

VD: Vận dụng vào giảng dạy phần kinh tế chính trị thuộc môn Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: So sánh hai mô hình kinh tế (Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung -  Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau của đất nước, để thấy được ưu nhược điểm của mỗi mô hình, từ đó chỉ ra được Đảng ta đã có những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử của đất nước, để đưa nước ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

* Quan điểm toàn diện:

. Muốn nhận thức đúng đắn sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố tạo thành nó và các mối liên hệ giữa các sự vật ấy với các sự vật, hiện tượng khác.

. Nhìn nhận sự vật như một chỉnh thể, phải phân biệt giữa cái chính và cái phụ, đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng nhân tố, từng mối liên hệ, tránh xem xét một cách dàn đều, bình quân.

. Phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi sự vật.

. Chống quan điểm phiến diện.

VD: Bộ Môn Đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội:So sánh các chủ trương đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, về dân tộc, tôn giáo......qua  các thời kỳ và thấy được những chủ trương đường lối của Đảng đưa ra luôn xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần làm ngay, bên cạnh đó cũng đề ra những chủ trương, đường lối để phát triển toàn diện xã hội, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Quan điểm lịch sử cụ thể:

. Bất cứ sự vật nào cũng tồn tại trong một giai đoạn, môi trường cụ thể nào đó. Khi xem xét chúng ta phải đặt sự vật ở trong giai đoạn tồn tại của nó, trong môi trường mà nó diễn ra. Như thế ta mới có nhận thức đúng đắn về sự vật.

.Khi xây dựng đường lối, kế hoạch…..bao giờ cũng phải phân tích tình hình cụ thể của địa phương, đơn vị. Khi tổ chức thực hiện cũng cần phải bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh.

VD: Đối với bộ môn Lịch sử Đảng: Từ những bài học kinh nghiệm qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, phân tích so sánh và làm rõ sự thay đổi  của các chủ trương, đường lối của Đảng qua các thời kỳ có sự khác nhau như thế nào để phù hợp với những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.

* Quan điểm phát triển:

.Khi xem xét, đánh giá sự vật, phải đặt nó trong sự vận động, phát triển và phải thấy rõ xu hướng phát triển tất yếu của nó.

. Phát hiện ra cái mới,cái tiến bộ và tạo điều kiện cho nó phát triển, tránh thái độ bảo thủ, định kiến, kỳ thị với cái mới.

.Thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển, tránh bi quan, dao động khi gặp phải những khó khăn tạm thời.

VD: Bộ môn Những vấn đề cơ bản của Hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN: Thấy được rằng ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội nên việc nghiên cứu, thực hiện và đóng góp hoàn thiện pháp luật là nhiệm vụ của tất cả mọi người, đặc biệt là các cán bộ, đảng viên.

* Quan điểm thực tiễn:

. Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ thực tiễn địa phương, ngành, đất nước.

. Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.

.Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.

VD: Thực hiện Thông báo kết luận hội thảo số 01-TB/TCT ngày 24/2/2016 của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái về: “Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng bài giảng, gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với đối tượng giảng dạy, các bộ môn và nội dung chương trình ở Trường chính trị tỉnh Yên Bái”. Tất cả các môn học trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị -hành chính đều hướng tới giúp học viên vận dụng lý luận vào thực tiễn thông qua các bước định hướng vận dụng mà người giảng viên hướng dẫn.

Bên cạnh đó, trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét sự phát triển của xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã ra đời với các lý luận sau:

          * Lý luận Hình thái kinh tế - xã hội:

. Là lý luận luận giải về sự hình thành, vận động, phát triển của các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người,với sự tác động biện chứng của các bộ phận cấu thành xã hội theo các quy luật khách quan. Cùng với đó,là sự dự báo về hình thái kinh tế - xã hội tiếp theo của lịch sử nhân loại là hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

VD: Giảng viên giảng dạy phần Chủ nghĩa xã hội khoa học thuộc môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phải nắm rõ lý luận về hình thái kinh tế xã hội để lý giải về tính tất yếu của sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa và chứng minh nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua hình thái kinh tế xã hội Tư bản chủ nghĩa cũng tuân theo quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.

* Lý luận giai cấp, đấu tranh giai cấp, dân tộc, nhân loại:

. Là lý luận luận giải về một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp. Trong đó, nêu bật lên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử nhân loại, nhằm chấm dứt hoàn toàn chế độ người bóc lột người.

VD: Phần Chủ nghĩa xã hội khoa học thuộc môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, môn Lịch sử Đảng, môn Những vấn đề cơ bản của Hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN, cần nắm rõ lý luận này để minh chứng và luận giải các vấn đề trong bộ môn của mình như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (Chủ nghĩa xã hội khoa học); mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân (lịch sử Đảng); nguồn gốc, bản chất của nhà nước (Những vấn đề cơ bản của Hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN)....

* Lý luận về nhà nước, cách mạng xã hội:

. Luận giải về sự phát sinh, phát triển của các loại hình nhà nước trong lịch sử và chỉ ra sự khác nhau giữa các nhà nước trong lịch sử (với chức năng thống trị giai cấp là chủ yếu) khác biệt như thế nào với nhà nước vô sản và dự báo về sự tiêu vong của nhà nước với tư cách là công cụ thống trị giai cấp.

VD: Môn Những vấn đề cơ bản của Hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN: Nắm vững lý luận này để lý giải nguồn gốc, bản chất của nhà nước, sự khác nhau giữa các kiểu nhà nước và luận giải đặc trưng của nhà nước vô sản, chỉ ra những đặc điểm, tính chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện....Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh: Làm rõ tính sáng tạo trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh....

* Ý thức xã hội:

. Luận giải về vai trò của ý thức con người trong việc cải tạo thế giới và xã hội họ đang sống thông qua các loại hình hoạt động thực tiễn. Từ đó khẳng định vai trò của con người trong việc nhận thức các quy luật khách quan để tác động trở lại Tồn tại xã hội.

Tất cả các bộ môn đều có thể vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Thấy được vai trò của bộ môn trong việc trang bị các kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết cho học viên để học viên vận dụng những kiến thức đã học để nâng cao chất lượng công việc. Thấy được vai trò của môn học của mình trong mối tương quan với các bộ môn khác và sự cần thiết phải vận dụng các kiến thức liên ngành vào giảng dạy các bộ môn trong chương trình học.

* Vấn đề con người:

. Luận giải về bản chất của con người với sự thống nhất biện chứng của mặt sinh học và mặt xã hội chứ không phải con người trừu tượng bị tuyệt đối hóa chỉ về mặt tinh thần hoặc mặt sinh học như các học thuyết trước đó đã làm. Thực chất đây chính là học thuyết nhằm giải phóng con người, hướng tới mục đích vì con người.

VD: Các bộ môn thuộc Khoa Dân vận, Khoa xây dựng Đảng rất cần nắm vững nội dung về vai trò của cá nhân, quần chúng nhân dân để làm sâu sắc nội dung bài học.

          Trên đây là một số nội dung về thế giới quan, phương pháp luận và vận dụng thế giới quan phương pháp luận triết học vào các khoa học chuyên ngành hay các bộ môn giảng dạy. Như vậy, trong  giảng dạy các bộ môn lý  luận chính trị, người giảng viên ngoài việc cần phải nắm vững và sâu kiến thức chuyên ngành thì cần phải nắm vững kiến thức liên môn. Đặc biệt, để có thể nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần vào nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thì người giảng viên cần nắm vững thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để có thể tự định hướng cho mình và định hướng cho người học khả năng nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn.

 

 

                     Ths. Nguyễn  Thu Hương

                                         Khoa Lý luận Mác - Lênin, TT HCM