• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
MÔ HÌNH HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP VÀ NHỮNG RÀO CẢN, TRIỂN VỌNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG MÔ HÌNH BẢO HIẾN CHUYÊN TRÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Ngày xuất bản: 29/06/2021 9:44:00 SA
Lượt đọc: 16230

 

Sau khi Hội đồng Hiến pháp đầu tiên được thành lập tại Pháp vào năm 1958 mô hình bảo hiến của Pháp đã trở thành mô hình giám sát hiến pháp tiêu biểu của châu Âu. Dựa trên mô hình này, nhiều quốc gia đã thành lập Hội đồng Hiến pháp của mình như Kazakhstan, Algeria, Campuchia…Ban đầu, Hội đồng Hiến pháp được thành lập để bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Sự ra đời của Hội đồng Hiến pháp có nguồn gốc từ mô hình bảo hiến tập trung, gắn với nước Pháp và những điều kiện chính trị - xã hội cụ thể của từng quốc gia. Ngay từ khi được thành lập, Hội đồng Hiến pháp ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định của Hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm sự cân bằng và ổn định của cơ cấu quyền lực nhà nước. Trước năm 2008, Hội đồng Hiến pháp là mô hình bảo hiến hạn chế, bởi nó chỉ được thực hiện quyền kiểm hiến các dự luật trước khi tổng thống công bố, chứ không có quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật đã có hiệu lực. Do đó, Hội đồng Hiến pháp cũng không thể bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị một đạo luật trái Hiến pháp xâm phạm. Tuy vậy, với một sửa đổi Hiến pháp năm 2008, Hội đồng Hiến pháp đã trao quyền kiểm hiến sau đối với các đạo luật xuất phát từ một vụ việc cụ thể của Tòa án thông qua đề nghị của Tòa Hành chính tối cao và Tòa án tối cao. Đây có thể nói là cải cách Hiến pháp quan trọng nhất về Hội đồng Hiến pháp, bởi vì Hội đồng Hiến pháp được chuyển dịch từ một thiết chế mang nhiều yếu tố chính trị - hạn chế sang một thiết chế tài phán hiến pháp.

Tuy cùng có tư cách là một thiết chế độc lập với lập pháp, hành pháp và tư pháp, việc tổ chức Hội đồng Hiến pháp không hoàn toàn giống nhau ở các quốc gia. Như vậy, trong tiêu chí tuyển chọn các thành viên Hội đồng Hiến pháp của các quốc gia thường không bắt buộc phải có chuyên môn về pháp luật. Ở góc độ chung nhất, Hiến pháp nhiều nước quy định các thành viên Hội đồng Hiến pháp được lựa chọn bởi các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cách thức thành lập Hội đồng Hiến pháp có mục đích chính là nhằm tránh sự lệ thuộc của Hội đồng Hiến pháp vào bất cứ nhánh quyền lực nào để qua đó nâng cao tính độc lập của Hội đồng. Hội đồng Hiến pháp cũng là một mô hình bảo hiến tập trung nhưng mang nhiều yếu tố chính trị hơn là một cơ quan chuyên môn tài phán Hiến pháp như Tòa án Hiến pháp. Cụ thể, trong Hội đồng Hiến pháp của một số quốc gia, các Tổng thống nghỉ hưu thường được coi là thành viên đương nhiên. Đây cũng là một đặc điểm nữa thể hiện đặc điểm chính trị của Hội đồng hiến pháp so với các mô hình tài phán hiến pháp bằng Tòa án. Theo nhận thức chung, Hội đồng Hiến pháp không phải là một cơ quan tư pháp nên không cần thiết tất cả thành viên phải là các thẩm phán có chuyên môn. Thêm vào đó, quy trình giải quyết vụ việc của các Hội đồng Hiến pháp thường thiếu đặc trưng của thủ tục tố tụng, không mang tính công khai. Như vậy, mặc dù Hội đồng Hiến pháp các nước được coi là một thiết chế hiến định độc lập, nhưng nhìn chung Hiến pháp các nước thường vẫn có những quy định về quy trình bổ nhiệm, tiêu chuẩn, tư cách thành viên mà chưa bảo đảm được sự độc lập của thiết chế hiến định này. Đây là một điểm hạn chế đáng lưu ý Hội đồng Hiến pháp so với các mô hình bảo hiến tư pháp khác.

Hội đồng Hiến pháp, khi ra đời đầu tiên ở Pháp, chỉ có chức năng kiểm hiến trước, tức là kiểm tra tính hợp hiến của các dự án luật trước khi công bố. Mặc dù vậy, gần đây một số quốc gia áp dụng mô hình này, kể cả Pháp, đã trao cho Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm hiến sau. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp không chỉ là cơ quan tham vấn mà còn có vai trò như một Tòa án đưa ra các phán quyết có tính hiệu lực tuyệt đối. Hội đồng Hiến pháp không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan nào, từ Nghị viện đến Chính phủ hay các cơ quan nhà nước khác, bảo đảm cho ba nhánh quyền lực hoạt động theo phạm vi thẩm quyền mà Hiến pháp quy định.

Bên cạnh đó, thông qua hoạt động kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, quyền giám sát các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân, quyền kiểm tra các điều ước quốc tế và một số nhiệm vụ, quyền hạn khác. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp có vai trò không nhỏ trong việc bảo vệ quyền công dân, được Hiến pháp công nhận. Về quyền giải thích Hiến pháp thì ngày nay, Hội đồng Hiến pháp, bằng chính các phán quyết của mình, còn có chức năng giải thích Hiến pháp. Cho dù có được quy định rõ trong Hiến pháp hay không, Hội đồng Hiến pháp các nước đều có quyền giải thích Hiến pháp. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp có trách nhiệm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, sự thống nhất và phát triển của hệ thống pháp luật. Bằng hoạt động của mình, Hội đồng Hiến pháp không chỉ duy trì sự ổn định mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển luật Hiến pháp.

Tính đến thời điểm hiện nay thì Hiến pháp Việt Nam chưa từng ghi nhận một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Việt Nam đã xây dựng mô hình bảo hiến thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát và dựa vào vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội làm trung tâm. Qua một thời gian áp dụng thì trên thực tế đã thể hiện rõ những ưu, nhược điểm của cơ chế bảo hiến này và nhận thấy cần thiết phải có một cơ quan bảo hiến chuyên trách để mang lại hiệu quả khi giải quyết những hành vi, những văn bản vi hiến. Cơ chế bảo hiến hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Từ sự tìm hiểu đặc điểm về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp thì nhận thấy đây là một mô hình cơ quan bảo hiến phù hợp với nguyên tắc và mô hình tổng thể tổ chức bộ máy Nhà nước ở nước ta, một cơ quan chuyên trách được giao quyền hạn nhất định nhằm có thể xử lý hành vi vi hiến, bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp.

            Tuy nhiên, nhìn nhận vào thực tế thì ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại rất nhiều rào cản, đó chính là những rào cản về bối cảnh hiện tại, về truyền thống hiến pháp, về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước..đây là những khó khăn, trở ngại trong việc xây dựng mô hình Hội đồng Hiến pháp nói riêng hay cơ quan bảo hiến chuyên trách nói chung.

Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cơ bản tiếp tục duy trì cơ chế bảo hiến truyền thống và không ghi nhận thêm bất kỳ một cơ chế bảo hiến mới nào. Cơ chế bảo hiến hiện nay có nhiều điểm hạn chế, khó có thể phát huy vai trò, thể hiện ở việc Việt Nam có một cơ chế bảo hiến không chuyên trách và thiếu tài phán hiến pháp. Hiến pháp năm 2013  đã trao trách nhiệm bảo hiến cho nhiều cơ quan nhà nước, trong đó Quốc hội và cơ quan thường trực của Quốc hội. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận Quốc hội và cơ quan thường trường của nó đóng vai trò trung tâm trong cơ chế bảo hiến, thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp. Trong các cơ quan này thì tòa án cũng được nhắc đến là cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo vệ Hiến pháp, tuy nhiên trên thực tế thì Hiến pháp và các đạo luật về ngành tư pháp đều không quy định thẩm quyền đáng kể của các tòa án trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Trên thực tế trong hoạt động của mình thì Tòa án cũng chưa bao giờ viện dẫn Hiến pháp để xét xử, giải thích Hiến pháp hay xem xét tính hợp hiến của một đạo luật hay quy phạm pháp luật. Chính vì vậy, chúng ta nhìn nhận được thì chính sự thiếu vắng bảo hiến chuyên trách và tài phán hiến pháp chính là một hạn chế lớn của cơ chế bảo hiến hiện nay của Việt Nam. Quốc hội - với tính chất là cơ quan chính trị quốc gia, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất cùng các cơ quan nhà nước không chuyên khác không thể thực hiện hiệu quả được vai trò bảo hiến.

Thứ hai, bàn về cơ chế tự kiểm soát lập pháp của Việt Nam hiện nay thì chúng ta nhìn nhận được kiểm soát lập pháp hiện nay là cơ chế tự kiểm soát, bởi theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền kiểm tra tính hợp hiến của luật thông qua việc thực hiện quyền lập pháp đó chính là hoạt động làm luật, sửa đổi luật thì quy định "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" ở Điều 69 Hiến pháp năm 2013 được coi là cơ sở để trao quyền duy nhất cho Quốc hội (chứ không phải là một cơ quan bảo hiến độc lập nào khác) có quyền kiểm tra tính hợp hiến của luật. Tuy nhiên, cơ chế tự kiểm soát mang tính nội bộ của cơ quan lập pháp đã nằm trong nội dung quyền lập pháp, chứ chưa phải là cơ chế kiểm soát quyền lực đúng nghĩa (đó chính là việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước).

Thứ ba, ở Việt Nam hiện nay chưa ghi nhận quyền khiếu nại, khiếu kiện hiến pháp của công dân. Để hiện thực hóa các quyền hiến định của nhân dân, khi các quyền cơ bản bị vi phạm thì công dân cần có quyền khiếu nại, khiếu kiện lên cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Tuy vậy, các quy định pháp luật hiện hành không trao cho người dân có quyền khởi kiện, khiếu nại các vi phạm Hiến pháp. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật hiện hành trao thẩm quyền đề xuất xử lý các vi phạm hiến pháp vào chính các cơ quan nhà nước. Chưa kể đến việc là thực tế chỉ một số ít cơ quan nhà nước có quyền đề xuất vụ việc hiến pháp. Mặt khác, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và số ít các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói riêng này thường chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố chính trị, đặc biệtđặt dưới sự lãnh đo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một rào cản đáng lưu ý trong việc thực hiện cơ chế bảo hiến.

Thứ tư, pháp luật hiện hành chủ yếu quy định về thẩm quyền giải quyết, hậu quả pháp lý của các quyết định nhưng chưa quy định chi tiết, cụ thể về quy trình, thủ tục, điều kiện bảo đảm các hoạt động bảo hiến. Pháp luật hiện hành cũng không xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể bảo hiến trong việc xem xét, giải quyết các đề xuất được đưa lên.

Thứ năm, thực tế thì hiện nay nhận thức của người dân về Hiến pháp, về các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, về các cơ chế hiến định còn hạn chế. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này trước hết là sự thờ ơ, thiếu quan tâm của người dân về Hiến pháp. Mặt khác, cũng chính từ việc người dân không thể sử dụng trực tiếp được Hiến pháp, thiếu các cơ chế hữu hiệu để người dân có thể sử dụng để bảo vệ các quyền hiến định khi bị vi phạm nên dẫn đến sự thờ ơ, vô cảm của người dân, làm cho người dân có cảm giác là những vấn đề về dân chủ, quyền con người, quyền công dân, về cơ chế bảo hiến là xa vời, không thực tế. Ngoài ra, việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục Hiến pháp ở nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Mặc dù chúng ta đã luật hóa hoạt động tuyên truyền, phổ biến vào giáo dục pháp luật nhưng thực tế các hình thức này vẫn có những mặt hạn chế khiến cho nhiều hình thức hoạt động chỉ mang tính chất phong trào như: tủ sách pháp luật, cuộc thi tìm hiểu pháp luật, loa phát thanh...

Bên cạnh những rào cản đến việc xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách thì Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những quy định mang tính chất là “triển vọng” cho việc xây dựng một cơ chế bảo hiến chuyên trách. Đó là lần đầu tiên  trong Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Đây là điểm mới rất đáng lưu ý trong chế định về thể chế chính trị của Hiến pháp năm 2013. Như vậy, mặc dù Việt Nam vẫn chưa thừa nhận chính thức nguyên tắc phân quyền, nhưng trên thực tế Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc vận dụng các thuộc tính quan trong của phân quyền đó chính là vấn đề kiểm soát quyền lực. Quy định mới đã nêu, kiểm soát quyền lực đã được thừa nhận là một nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, là một vấn đề mới, một vấn đề rất quan trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam, được thể hiện xuyên suốt trong nhiều chương của Hiến pháp năm 2013 và đã được tiếp tục được thể chế hóa trong các luật có liên quan.

Mặt khác, điều 119 Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa Hiến pháp năm 1992 sửa đổi nhưng đã bổ sung quy định mới, đó là: "Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” vàxác định rõ trách nhiệm của “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND, VKSND, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp". Đây là một quy định quan trọng đã đặt cơ sở bước đầu để thiết lập một cơ chế tài phán đối với các vi phạm Hiến pháp, kể cả luật, nghị quyết của Quốc hội.

Trên thực tế, việc giải thích hiến pháp vì mục đích xem xét tính hợp hiến của luật là một nhiệm vụ khó khăn. Vì vậy, những người xem xét tính hợp hiến hay bất hợp hiến của luật phải là những người có trình độ và năng lực đặc biệt.việc thực thi chức năng tài phán hiến pháp không giống như việc áp dụng các đạo luật thông thường, bởi phán xét hiến pháp liên quan đến những giá trị căn bản của chính thể và trong nhiều trường hợp, đòi hỏi sự cứu xét các học thuyết hiến pháp và pháp lý liên quan. Chính vì vậy, vấn đề bảo hiến cần thiết phải được giải quyết ở một định chế đặc biệt như Hội đồng hiến pháp với những người có trình độ và chuyên môn đặc biệt về hiến pháp, chính trị, luật pháp, và tư pháp.

Một vấn đề quan trọng đó là nếu dân chủ được coi là một biểu hiện của một trật tự hiến pháp văn minh, vấn đề bảo hiến cần phải được giải quyết bởi một cơ quan được hình thành theo một con đường dân chủ. Việt Nam cũng có lý do dân chủ tương tự để từ chối giao quyền bảo hiến cho các tòa án thường. Các thẩm phán thường ở Việt Nam được hình thành bằng con đường bổ nhiệm. Xét trên phương diện dân chủ, họ không ở một vị trí thích hợp để phán xét về tính hợp hiến của một đạo luật do cơ quan dân chủ là Quốc hội ban hành. Điều này giải thích cho xu hướng lựa chọn một cơ quan bảo hiến chuyên trách mà sự hình thành nên thành viên của nó với nhiệm kỳ có giới hạn sẽ có vai trò chính của Quốc hội.

Cuối cùng, dù theo mô hình bảo hiến nào thì mục đích cuối cùng của những cơ quan bảo hiến này là bảo vệ hiến pháp – đạo luật tối cao của đất nước; bảo đảm sự ổn định và tối cao của hiến pháp, sự tuân thủ những mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, bảo vệ những quyền và tự do hiến định của con người như vậy phù hợp với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

 

Bùi Thị Bích Ngọc

Khoa Nhà nước và pháp luật