• Loading...
Chào mừng bạn đến với trang Thông tin điện tử Trường Chính trị tỉnh Yên Bái!.
 
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân
Ngày xuất bản: 22/03/2023 1:48:00 CH
Lượt đọc: 3329

Bài viết làm rõ hơn những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa định hướng công cuộc xây dựng, cải cách nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo, liêm chính, phục vụ nhân dân.  

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân

Bản chất giai cấp và tính xã hội của Nhà nước

Các nhà kinh điển mácxít đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước là tính giai cấp - chức năng giai cấp và tính xã hội - chức năng xã hội. Nhà nước ra đời giúp cho xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về kinh tế mới có thể lập và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và có thêm phương tiện để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”(1). Vì vậy, không có một nhà nước nào có thể tồn tại và phát triển được nếu chỉ duy trì bản chất giai cấp, mà không thực hiện chức năng xã hội. Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, giai cấp thống trị mặc dù có địa vị kinh tế - xã hội quan trọng và quyết định đối với các giai cấp khác, nhưng cũng chỉ là một bộ phận của xã hội mà không phải là toàn xã hội. Do đó, ngoài việc bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị về kinh tế - xã hội, giai cấp thống trị phải điều hòa lợi ích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các giai tầng khác và ngay cả với giai cấp đối lập. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là một công cụ, đồng thời, là một bộ máy thể hiện trình độ dân chủ của nhân dân. 

Nhà nước quản lý xã hội và quản lý chính nhà nước bằng pháp luật

Trong xã hội dân chủ, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để quản lý chính nhà nước. C.Mác khẳng định: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ”(2). Trong bất cứ nhà nước nào, sự tùy tiện của cơ quan nhà nước và người được nhà nước ủy quyền trong thực thi công vụ đều có thể xảy ra. Để hạn chế sự tùy tiện đó, pháp luật phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội, đặc biệt là quyền tự do của con người. C.Mác nêu rõ: “Tự do được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật pháp. Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp chống lại tự do… Ngược lại, luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến… không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do của nhân dân”(3). Để phục vụ tốt yêu cầu quản lý xã hội và chế ngự quyền lực nhà nước, pháp luật phải vì con người, C.Mác nhấn mạnh: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi pháp luật. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”(4).

Phải kiểm soát quyền lực nhà nước

Qua thực tiễn lãnh đạo nhà nước Xô-viết, V.I.Lênin thấy rõ nguy cơ tha hóa quyền lực nhà nước ngay cả trong nhà nước XHCN; đồng thời chỉ ra sự cần thiết và những phương thức, điều kiện cụ thể đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài nhà nước, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Cuộc đấu tranh chống sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của các tổ chức Xô-viết, được đảm bảo bởi tính vững chắc của những mối liên hệ gắn liền các Xô-viết với “nhân dân” nghĩa là với những người lao động và những người bị bóc lột”(5). Người dân đã ủy quyền cho cơ quan nhà nước thì phải có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước để không bị mất quyền, lạm quyền. Các cơ quan nhà nước phải luôn giữ mối liên hệ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân để không trở thành quan liêu, thành bộ máy đứng trên nhân dân. Trước hết, nhân dân phải có quyền lựa chọn người đại diện thực sự xứng đáng để họ tin cậy ủy quyền của mình: “Quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo”(6). 

V.I.Lênin chỉ ra điều kiện đảm bảo việc kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu lực là phải đảm bảo tính độc lập, đủ quyền lực của các chủ thể kiểm soát đối với các đối tượng phải kiểm soát. Trước hết là phải có sự phân công quyền lực, giao nhiệm vụ một cách độc lập, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước: “Viện kiểm sát trong khi làm công việc kiểm sát của mình, không có bất cứ một quyền hành chính nào, nó không có quyền biểu quyết trong bất cứ một vấn đề nào thuộc phạm vi hành chính. Ủy viên công tố có quyền và có bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi”(7). Có như vậy mới đảm bảo tính độc lập của chủ thể kiểm soát với đối tượng kiểm soát’ và kiểm soát là một nguyên tắc bắt buộc trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.

Kiên quyết chống quan liêu và nạn hối lộ

V.I.Lênin vạch rõ quyền lực luôn có nguy cơ bị tha hóa, dẫn đến quan liêu, tham nhũng, tham ô, hối lộ trong bộ máy nhà nước. Người cảnh báo: “Một hiện tượng điển hình của nước Nga là nạn hối lộ. Nơi nào cũng có hối lộ. Trong điều kiện nạn hối lộ, tham nhũng thịnh hành thì không thể làm được một thứ chính trị nào hết”(8). Từ phân tích rõ bản chất, tác hại nguy hiểm của bệnh quan liêu, tham nhũng, hối lộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng cần phải có thái độ dứt khoát, kiên quyết; bất cứ hành vi quan liêu, tham nhũng, hối lộ nào cũng phải bị trừng phạt. Cần phải xây dựng cơ chế phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Phải kiên quyết thanh trừ ra khỏi Đảng, Nhà nước những kẻ quan liêu, tham nhũng.

Nguyên lý “thà ít mà tốt”

Trong lãnh đạo xây dựng nhà nước Nga Xô-viết, V.I.Lênin đã chỉ rõ một tổ chức mạnh không phải vì số lượng mà chủ yếu ở chất lượng. Phải đánh giá khách quan, khoa học thực trạng bộ máy nhà nước để có cơ sở, căn cứ cải cách, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước. Vấn đề đầu tiên là phải xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tinh giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm theo nguyên lý “Thà ít mà tốt”(9), nghĩa là coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng; cán bộ, công chức phải có năng lực, phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạt “chất lượng kiểu mẫu thật sự”(10). Cho nên cần đổi mới công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quá trình cải cách, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.

Vấn đề xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh 

Thứ nhất, chuyển từ Chính phủ cai trị sang Chính phủ là công bộc phục vụ Nhân dân; định hướng xây dựng nền hành chính nhà nước kiểu mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(11). Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(12). Nhà nước kiểu mới là để để phục vụ Nhân dân, chứ không phải Nhân dân phục vụ Nhà nước. Xây dựng Chính phủ dân chủ, kiến tạo, phục vụ, tức là Chính phủ phải giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, hướng tới sáng tạo, phát triển nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Triết lý Chính phủ là công bộc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Nhân dân là chủ xã hội chính là tư tưởng định hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, Chính phủ định hướng và tập trung nguồn lực cho phát triển, tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp và xã hội phát triển.

Nhà nước kiến tạo phát triển bằng các cơ chế, chính sách khuyến khích các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả chúng ta, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào, đều phải góp sức làm cho sản xuất phát triển… Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình”(13). Tại phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 01/01/1953, Người đã đề xuất triết lý chính phủ doanh nghiệp: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món gì đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận”(14). Tư tưởng này có vai trò định hướng trong hoạch định chính sách kinh tế và điều hành hoạt động của chính quyền các cấp trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính phủ cần tạo môi trường cho doanh nghiệp và người dân khởi nghiệp để công tư đều lợi, kinh tế quốc gia phát triển mạnh. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thấy rõ vai trò của các doanh nhân và kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Thư gửi cho các giới công thương Việt Nam ngày 13/10/1945, Người nhấn mạnh: “Giới Công - Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công - Thương trong công cuộc kiến thiết này. Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng”(15). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay cần xây dựng một nền hành chính dân chủ, thân thiện với xã hội, với người dân, thị trường và doanh nghiệp, lấy sự ấm no, hạnh phúc của người dân, sự thành công của các doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước làm mục đích hành động. 

Thứ ba, Chính phủ liêm chính, hành động có hiệu lực, hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng Chính phủ có hiệu lực, hiệu quả và thể hiện đúng bản chất phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Để xây dựng một nền hành chính liêm chính, hành động có hiệu lực, hiệu quả, Người chỉ rõ: “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui vào lọt các Ủy ban đó”(16).  

Người chỉ ra phương hướng tăng cường công tác giáo dục đạo đức công vụ đi đôi với thực thi pháp luật nghiêm minh, đề cao vai trò của Nhân dân trong chống tham ô, lãng phí, quan liêu, để xây dựng thành công một nền hành chính liêm khiết, hành động có hiệu lực, hiệu quả: “Cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân. “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM. Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(17).  

Thứ tư, nền hành chính với người dân là chủ, có quyền lực, tham gia hoạch định chính sách, pháp luật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải thể chế hóa, có hành lang pháp lý bảo đảm cho người dân thực sự có quyền lực tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1959, Người nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước”(18). Chính phủ và cán bộ chính quyền các cấp phải khuyến khích người dân sáng tạo, tự do sản xuất, tự do kinh doanh, tự do sở hữu tài sản và tự do hoạt động làm ăn vì lợi ích cá nhân và lợi ích của quốc gia dân tộc. Vì vậy, đội ngũ cán bộ nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải chống bệnh quan liêu, phải biết học hỏi, bàn bạc, giải thích cho nhân dân trong việc hoạch định cũng như thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, phải khuyến khích, bảo vệ người dân trong việc tích cực chống các bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy nhà nước: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”(19).

Tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân 

Một là, “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(20). Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự báo và khả năng ban hành chính sách thích ứng của Chính phủ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 

Hai là, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương. Sớm khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy hành chính nhà nước. Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành và ở địa phương nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo theo luật định. Thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển đất nước.

Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với Nhân dân. Đổi mới đồng bộ các nội dung của công tác cán bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy nhà nước.

Năm là, “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật”(21). Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế bộ máy hành chính nhà nước. Triển khai mạnh mẽ việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số. Tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. 

Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, cải cách nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo, liêm chính, phục vụ Nhân dân sẽ góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Đó cũng là việc làm thiết thức đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa./. 

------------------

Ghi chú:

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 22, Nxb CTQG, H.1995, tr.290-291. 

(2),(3),(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2002, tr.202; tr.95, tr.350.

(5) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb CTQG, H.2006, tr.253.

(6),(7) V.I.Lênin, Về bộ máy của Đảng và Nhà nước, Nxb Thông tin lý luận, H.1985, tr.49, tr.229-230.

(8) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tr.218.

(9),(10) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tr.442, tr.446.

(11),(15),(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.21, tr.53, tr.21.

(12),(17) Sđd, tập 6, tr.232, tr.127.

(13),(19) Sđd, tập 13, tr.68, tr.419.

(14) Hồ Chí Minh, Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận, H.1990, tr.14.

(18) Sđd, tập 12, tr.374.

(20),(21) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.176, tr.179.

 

PGS.TS Nguyễn Thế Thắng - Học viện Chính trị khu vực I, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh